Tập thơ TATHIK (BIỂN)


Tập thơ TATHIK (BIỂN)

Vương quốc Champa nằm trải dài trên vùng đất miền trung Việt Nam ngày nay, nổi tiếng trù phú nhờ giao dịch hàng hải. Vùng đất này không thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Biển chính là nơi người Chăm làm ăn và chiến đấu phòng ngự.
  

Dẫn nhập
 


Champa (192-1832) đã hình thành nên một nền văn minh rực rỡ xứng tầm trên khu vực và thế giới, di sản văn học phong phú, điển hình là ariya của người Chăm. Trải qua nhiều biến động lịch sử, người Chăm hiện nay đã không còn biết nhiều đến ariya truyền thống của dân tộc nữa.
- Luật ariya truyền thống như thế nào?
Luật ariya truyền thống gồm hai câu thơ đi đôi với nhau, vần trong từ cuối cùng của câu thứ nhất hiệp vần với từ đứng giữa câu thứ hai (gieo vần lưng), số lượng âm tiết trong mỗi câu phát triển khá tự do, số lượng câu không giới hạn. Trong cặp câu tiếp theo thì vần trong từ cuối cùng của câu đầu tiên hiệp vần với từ cuối cùng của câu thứ hai ở cặp câu đứng trước đó (gieo vần chân). Sự kết nối hiệp vần nhằm mục đích tạo ra tính liên hoàn trong xuyên suốt bài thơ. Tuy nhiên sự hiệp vần giữa cặp câu đứng sau với cặp câu đứng trước thường không được tuân thủ nghiêm ngặt.
Luật ariya truyền thống có một số điểm tương đồng với thể thơ lục bát của người Việt như hai câu đi đôi với nhau, tuy nhiên tiếng Chăm là ngôn ngữ đa âm tiết và có trọng âm nên có đặc trưng riêng; cụ thể là về vần thì nó không phân biệt vần bằng, vần trắc, cả hai vần này đều tồn tại bình đẳng. Còn về số lượng âm tiết, các âm tiết trong bộ phận tiền trọng âm (lang likuk) của mỗi từ có thể lượt bỏ, hơn na ariya khá tự do về số lượng âm tiết nên ta không cần phải quan tâm đến số lượng âm tiết trong mỗi câu. Nếu là từ đa âm tiết thì sự hiệp vần được tính ở âm tiết cuối cùng, các âm tiết còn lại thì không cần quan tâm.

- Trường hợp 1:
Panrang Kraong, Parik, Pajai halei gilAONG
Kiel basei khing karAONG kacuec tabiak jieng darAH       
Gram sarawan duis di hagait blaoh o thAH
Mbai tapuh di grep nârAH tagrang ka-ndaung pak halei
(Glang anak)

- Trường hợp 2:
Gilai praong bingu nyaom lAK
Nduec nao tablAK saong gilai birau
Dom gilai birau nao drAH
Cieng pak cAH saong gilai birau
(Damnây Po Tang Ahaok)

- Về các từ ngữ sử dụng trong tập thơ này:

Do hướng đến việc bảo tồn tiếng Chăm nên tác giả rất cẩn thận trong việc lựa chọn các từ ngữ. Hầu hết các từ ngữ được sử dụng trong tập này đều có trong các từ điển của Étienne François Aymonier (1906) và Gerard Moussay (1971). Tác giả ưu tiên sử dụng những từ thông dụng trong đời sống hằng ngày.

- Bạn đọc lưu ý về bản dịch thơ tiếng Việt:

Dịch thơ là dịch với nghĩa theo ngữ cảnh sao cho có nhịp, vì vậy tùy theo ngữ cảnh và nhịp thơ trong mỗi câu, từ một từ gốc ban đầu tác giả đã dịch linh hoạt bằng nhiều từ khác nhau có nghĩa tương đương mà không nhất thiết phải đúng rập khuôn với nghĩa gốc của nó trong từ điển.
Thơ theo luật ariya truyền thống, trong nguyên văn tiếng Chăm, giữa các câu có hiệp vần theo luật ariya nhưng khi dịch sang tiếng Việt, tác giả không thể dịch hiệp vần như nguyên văn được. Điều này đòi hỏi bạn đọc phải đọc được nguyên văn tiếng Chăm mới cảm nhận được ariya truyền thống, cũng như cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ Chăm.

  
Tathik (Biển)




1
Mâng kal mukkei nao gilai nao tathik
Nao di grep libik siam hareh di alam
Ngap mbang di tathik biak siam
Mukkei oh huec hajan angin ribuk
Ra-ndap angin ra-ndap ribuk
Gilai ahaok nduec  angin yuk o mâgei
Aia tathik paoh di gilai katang rei
Nao krâh tathik gilai nduec bisamar
Nao tal Jawa, Kaling, Laow, Japan...
Nao grep thun grep bilan o padei takai
Anâk tacaow ngap hajieng yau nan hai
Urak ni ngap hagait o hajieng hatai tok damân
Rai uni ka-ndah ka-ndaiy sakarai o thei krân
Sakarai nâm krung di tathik o thei biai
Jabuel nagar Campa krah di gilai
Jabuel kau ndik gilai sami samar
Anâk tacaow harei ni tok ngap hamu mbang o tal
Kau tok ngap bal li-ua hua lingal di apuh hamu
Kau ba-mbu rup di pa-ndiak ngap o sumu
Kau buai suan o hu sap yawa
Harei uni anâk tacaow o thau nâm kal tapa.
Sakarai di tathik kau tok sa hatai damân taklaot mbuk.



1
Thuở  xưa tổ tông tung hoành trên biển
Đi khắp nơi trên thế gian
Làm ăn trên biển thật tuyệt
Tổ tông không ngại mưa bão
Quen với gió bão
Chiếc thuyền chạy, sóng không vùi
Sóng biển đập mạnh dữ dằn
Đi biển thuyền chạy thật nhanh
Đi tận Java, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản...
Đi hết năm tháng, chẳng dừng chân
Con cháu hôm nay sao chẳng làm được
Bây giờ chẳng làm gì được, lòng chỉ luyến tiếc
Cuộc đời cong queo hôm nay chẳng ai nhận nhìn sử   sách
Ký ức về biển không ai bàn
Binh sĩ Champa giỏi về hàng hải
Binh sĩ ta chiến đấu trên biển nhanh nhạy
Con cháu hôm nay chỉ biết làm ruộng, không đủ ăn
Ta chỉ làm nông, làm ruộng nương
Ta phơi thân giữa nắng to, cũng không đủ ăn
Thân ta héo mòn tả tơi
Con cháu hôm nay chẳng nhìn nhận dấu ấn lịch sử
Ta tiếc nuối ký ức về biển như đang rụng tóc.















2
Mâhu tathik ngap mbang di dun-ya
Kau caoh ta-mbok rok agha aia hep tasuak
Kau ngap hamu apuh thuak yawa
Kau yau urang gila bac glaong o hu gruk ngap
Tangin takai ajaong amra tak
Kau tuei aia di malam ndih o bak mata
Kau daok yau urang gila
Kau ngap bak jala di pa-ndiak praong
Ikak tung tian kau bac tagok glaong
Urang gila daok angaok glaong kau daok ala
Kau o takrâ buai yawa
Mâhu tathik di nâgar mâng kal lo
Bhap bini harei ni siam o
Asaih bac glaong ralo urang o hu gruk ngap
Ngap halun ka Yuen biak ri-mbah
Ngap halun ka urang alah hatai lo
Tathik praong ikan biak ralo
Mukkei mada lo di tathik
Kau buai yawa prân takik
Kau mâhu tathik lo ka kau nao gilai.


2
Ta thèm có biển làm ăn
Ta cuốc đất gò, đào rễ cây mồ hôi loang
Ta thở dài làm ruộng nương
Ta như kẻ khờ học lên cao mà thất nghiệp
Tay chân bầm vết rìu rửa
Ta tưới nước ban đêm ngủ không đầy giấc
Ta ở như kẻ khờ
Ta làm suốt canh trưa giữa nắng to
Thắt lưng buộc bụng ta học lên cao
Kẻ ngu ngồi trên cao còn ta ở dưới hàng
Ta chẳng chịu được, ta héo mòn
Thèm có được biển như thuở xưa
Dân chúng hôm nay chẳng an lành
Thư sinh học rộng lại thất nghiệp
Làm mướn vất vả với người Kinh
Làm thuê ta chán chường
Biển rộng cá đầy
Tổ tông phú quý với biển cả
Tổ tông giàu lắm với nghề đi biển
Ta héo mòn thân tả tơi
Ta thèm có được biển để rong thuyền.








3
Lingik tathik yang libang
Lihik tathik kau sanâng bal di dun-ya
Kau ngap hamu mbang aia mata
Daong di yang hia o hu
Tanâh ba-mbu di pa-ndiak angin thu
Sibar ngap hamu o hu aia
Mâng kal mukkei ngap mada nâgar
Anâk tacaow mbang aia mata harei ni
Lingik tathik yang libang thau lei ni
Hatai o caik di tada ba limah ka urang.


3
Trời, biển, thần, ma[1]
Mất biển cả ta nghĩ lung tung
Ta làm ruộng nuốt nước mắt
Nhờ vả thần linh ta khóc chẳng được
Đất phơi nắng, phơi gió
Làm sao làm ruộng trên đất khô
Thuở xưa tổ tông làm giàu trên xứ sở
Con cháu nuốt nước mắt hôm nay
Trời, biển, thần, ma có thấu không?
Trái tim chẳng để trên ngực, mang dâng hiến cho người.






4
Kau blek mata di dun-ya
Kau mbang aia mata di dun-ya
Kau takrâ gilai ndik tapa
Yau mukkei kau tapa kraong tathik
Riyak o khin paoh bilik
Kau mbuah kar di tathik yang libang harei ni

Jabuel kau mâng kal cahya di tathik ni
Ataong jaguk di tathik o thei payau
Urak ni kau mboh mâlau
Mukkei kau cahya kau ye ngap halun harei ni
Lingik tathik yang libang thau lei ni
Kau mbuah kar dun-ya harei ni kau o takrâ

Lingik tathik yang amâ
Kau o takrâ dun-ya urak ni
Kau ndih o bingi
Mbang mâsin sara di aia mata
Kau su-on tathik di nâgar
Dun-ya biak sup mata kau laik di halei
Ngap habar mada yau mukkei
Nao tathik nao gilai ngap hu ralo mâh pariak

Mblang tanâh thu cek ba-mbu di pa-ndiak
Phun thu hala o cak
Kau mâhu tathik ngap mada yau mukkei

O hu tathik nâbuel kau yau o hu takai
Hatai pa-ndik kacah brai di dun-ya
Mâhu tathik di nâgar
Kau cao cuah ngap bimong di tathik
Daok rinaih amaik amâ pataow ngap bimong mâng cuah klik
Kau ngap bimong di tathik mâng cuah klik tanjaoh trun

Mukkei kau cahya kau hadar phuel
Mukkei sunit ginreh tung tian cahya
Kau ngap bimong mâng cuah klik saong aia
Kau ngap bimong di tathik nâgar mukkei

Mâng asit kau tok kuk akaok di palei
Kau ngap bimong mâng cuah hatai su-on mukkei

Lingik tathik yang libang di halei
Thau lei urang likei ni thuak yawa
Kau tok takrâ hu tathik di nâgar
Kau mâhu ngap mbang di tathik nâgar
Kau o takrâ dun-ya
Lingik tathik yang libang kau mbang aia mata grep adhua.
 


4
Ta lật ngửa con mắt nhìn thế gian
Ta nuốt nước mắt trên cõi đời
Ta thèm có thuyền đi qua
Như tổ tiên qua sông, biển
Sóng chẳng dám đập
Bây giờ ta oán tránh trời, biển, thần, ma

Binh sĩ ta vinh quang giữa biển này
Trời, biển, thần, ma có thấu chăng?
Đánh giặc trên biển không thể bì
Bây giờ ta lại ngại
Tổ tiên ta vinh quang còn ta bây giờ làm đầy tớ
Ta oán trách cõi đời, ta chẳng thể ưa

Trời, biển, thánh thần
Bây giờ ta chẳng ưa đời
Ta ngủ chẳng ngon giấc
Ăn mắm muối với nước mắt
Ta nhớ về biển cả quê hương
Cõi đời thật u ám, đôi mắt ta rơi về đâu?
Làm sao được giàu như tổ tiên?
Đi biển rong thuyền làm được nhiều của cải

Bãi đất khô, núi phơi giữa nắng to
Cây chết khô, chồi không đâm
Ta thèm có biển làm giàu như tổ tông

Không có biển dân ta như kẻ không chân
Lòng đau tan nát giữa cõi đời
Thèm biển cả giữa quê hương
Ta nắm lấy cát biển xây tháp
Thuở bé thơ bố mẹ dạy xây tháp từ cát
Ta xây tháp từ cát ướt nhỏ giọt

Tổ tông vinh quang ta nhớ ơn
Tổ tiên linh thiêng tấm lòng cao cả
Ta xây tháp bằng cát mịn với nước biển
Ta xây tháp giữa biển cả của tổ tiên
Từ nhỏ ta chỉ cúi đầu giữa làng quê
Ta xây tháp bằng cát mà lòng nhớ về tổ tông

Trời, biển, thần, ma ở đâu?
Có thấu chăng, kẻ trai tráng này thở dài
Ta chỉ ưa làm nghề biển giữa quê hương
Ta thèm làm ăn với biển cả xứ sở
Ta không ưa cõi đời
Trời, biển, thần, ma ta nuốt nước mắt khắp nẻo đường.











5                     
Tanâh ganik kau hawing akaok
Kau mâhu lo angin di angaok tathik mârai
Angin ni thau hai
Kau o hu thei biai nâm sakarai
Kau ni urang likei klaoh hatai
Kau takrâ lo nâm krung mukkei di tathik

Tanâh palei urak ni ganik
Kau mâhu daok di tathik luai yawa
Kau luai suan thuak yawa di dun-ya
Kau glang tathik di nâgar hatai paoh klaoh suan
Kau pa-ndik hatai tian
Kau damân lo bian mukkei mâda ginup

Kau mahu nao tathik o takrâ hamu
Mukkei su-nit ginreh hu ralo ilamu di tathik
Nao grep dun-ya grep libik
Mukkei kau nao tathik ngap mbang mada
Tathik praong riyak paoh o padei
Dun-ya paoh bilik harei ni kau o takrâ.



5
Đất đai chật hẹp, ta ngộp
Thèm hít thở cơn gió từ đại dương thổi về
Cơn gió này thấu chăng?
Ta không còn ai bàn về dấu tích lịch sử
Ta kẻ trai tráng lòng trung thành
Chuộng lắm ký ức về tổ tông trên biển

Đất đai làng quê bây giờ chật hẹp
Ta thèm ở bờ biển thở hơi
Thở dài về cõi đời
Ta ngắm biển trái tim đập loạn nhịp
Ta đau lòng
Tiếc nuối thuở xưa tổ tông giàu sang

Ta muốn làm nghề biển, không làm ruộng
Tổ tông giỏi về biển
Đi khắp thế gian, khắp nơi chốn
Tổ tông đi biển, làm ăn giàu sang
Biển cả mênh mông, sóng đập chẳng dừng
Cõi đời vùi dập, ta không thể nào ưa.





6
Mukkei nao tathik war tanâh
Ngap mbang di tathik luai tanâh daok mâjua
Jaguk ngap kalin mâk aia
Drei lihik tanâh nâgar lihik gam tathik
Thun 1471 gilang Wijaya tayah klik
Thun 1835 abih palei di tathik paraong o daok sa baoh.





6
Tổ tông làm nghề biển mà quên đất đai
Làm ăn trên biển rồi lãng quên vùng đất
Kẻ lạ gây chiến tước đoạt đất
Ta mất đất đai tổ quốc, rồi mất luôn biển cả
Năm 1471 thành đồ bàn thất thủ
Năm 1835 tất cả ngôi làng ở biển tan nát không còn                                           một bóng.



7
Dalah aia tathik paoh riyak
Kau mbuah-kar di dun-ya kau mbang aia mata
Kau lihik suan tuei riyak
Kau si klak nâgar nao tapah
Kau urang o hu aia
Kau takrâ nao tapa libik pa-ndik pandua

Tathik paoh riyak di nâgar
Kau yau tuai atah mârai rawang sang
Kau daok di mblang
Tathik paoh riyak kau tapong kang di dun-ya
Kau laik aia mata kau o hia
Kau tapong kang di dun-ya druh hala

Kau o thau agha
Mukkei pajieng tabiak dun-ya paoh riyak
Kau thek bilik o hu agha
Tathik pa-ndiak chang di dalah aia
Aia harei trun di matâh adarha
Kau ngap kapal ndik tapa dalah riyak
 
Tathik praong urang jabuel Campa glaong matâh adarha
Kau ndik dalah aia hadar jabuel mâkal
Urang likei harei ni tok yau ra bhian
Kau o nao tathik tok ralan di dun-ya
Kau si lihik gam adarha
Kau klaoh hatai di nâgar Campa mâkal.






7
Mặt biển vỗ sống
Ta oán trách đời, ta nuốt nước mắt
Hồn ta tan vào sóng
Ta muốn bỏ xứ sở đi tu
Ta kẻ vong quốc
Ta muốn bỏ  quên tất cả đau thương

Biển vỗ sóng giữa quê hương
Ta như lữ khách về thăm quê
Ta đứng giữa bãi đất trống
Mặt biển vỗ sóng còn ta lặng nhìn
Ta rơi nước mắt mà không khóc
Ta đứng nhìn cõi đời rớt rụng

Ta chẳng biết cội nguồn
Tổ tông sinh ra cõi đời vùi sóng
Ta trôi nổi như kẻ không rễ bám
Biển lấp lóa nắng soi bề mặt
Mặt trời chiếu lưng chừng không trung
Ta làm tấm ván kê lướt trên bề mặt sóng

Biển bao la binh sĩ Champa cao lưng chừng trời
Ta lướt mặt sóng biển mà nhớ lại binh sĩ thuở xưa
Kẻ trai tráng hôm nay chỉ tầm thường
Ta không còn đi biển, chỉ bò giữa đời
Ta sắp mất luôn cả không trung
Ta kẻ chân thành với nước Champa thuở xưa.
















8
Kau damân tathik caglaoh ruak trak
Kau matâh hatai klak abih nâm sakarai
Rai manuis kau o juak takai
Kau nao tapah di glai khan ao taik tahak mrai
Kau hajieng samri nao tapah o marai
Mbuk paoh di glai kau ka-uk yau asau thing.


8
Ta tiếc nuối biển cả mà sinh bệnh nặng
Ta đau lòng bỏ luôn dấu tích lịch sử
Ta không làm kiếp người
Ta đi tu giữa rừng, áo quần tả tơi
Ta thành dã nhân đi tu không về
Tóc xõa trong rừng ta hú như con chó hoang.







9

Kau pa-ndik hatai
Kau nao tapah di glai lawik harei o mârai
Kau war sakarai di tathik kau war mukkei
Kau daok sa drei o thei ndom mayai
Kau sanâng klaoh talei kau nduec tamâ glai
Kau su-on mukkei kau o mârai tathik
Kau o maong lingik
Kau klaoh talei lawik harei o gilac palei.












9
Ta đau lòng
Ta đi tu giữa rừng lâu ngày không về
Ta quên sử sách về biển, ta quên luôn tổ tông
Ta ở một mình không kẻ bàn bạc
Ta nghĩ  lung tung như kẻ điên rồi chạy vào rừng
Ta nhớ tổ tông ta không quay lại biển
Ta không nhìn trời
Ta như kẻ điên không trở về quê hương.








Kau (Ta)


1
Kau bal li-ua ngap hamu ngap apuh
Kau bac tagok glaong o hu gruk ngap
Kau ba-mbu rup di pa-ndiak
Balan bhang phun hala o cak
Kau nao tapah o daok di dun-ya
Kau cih ariya ka urang gila pah tada klao
Kau nao tapah kau yau bamaw
Kau o thau rup pabhap klah abih nâm sakarai. 







1
Ta kẻ nông dân làm ruộng nương
Ta học lên cao mà thất nghiệp
Ta phơi thân giữa nắng to
Đất khô cây không mọc lá
Ta đi tu không ở với người đời
Ta làm thơ cho kẻ ngu đắc ý cười
Ta đi tu như nấm mọc vùng hoang dại
Ta không còn nhận mình bỏ hết dấu vết vàng son.





2
Ngap ariya kau yau urang gila
Kau mbang aia mata lapa tian
Manuis kau o yau ra bhian
Kau luai rup di hajan ruak hakik o siam
O daong di thei kau hanruai di urang
Duah gruk kau cang liwik thun bilan
Ariya kau ngap o yau bhian
Kau war rup war drei thun bilan o krân thei.






2
Làm thơ ta như kẻ dại
Ta nuốt nước mắt lòng đói meo
Thân ta chẳng như kẻ thường
Ta phơi thân giữa mưa nắng bệnh hoạn không dứt
Chẳng nhờ vả ai, ta phát điên vì kẻ lạ
Tìm việc ta chờ theo năm tháng
Bài thơ ta làm chẳng như thường lệ
Ta quên mình năm tháng không nhận nhìn ai.











3
Kau samri nao tapah di glai
Kau tapah sari kli habau ging di rai
Rai manuis kau o juak takai
Kau maong dun-ya di mata mayao bom
Rai manuis kau o takrâ hadom
Kau o hu rai dam thek ndong
Kau mata ghueh bhong
Dun-ya mata kau maong caglaoh apuei
Mata kau yau mayaw bom cak apuei
Rai kau sup hatai matuei di malam
Mata kau krân abih urang gila
Khaol nyu pah tada klaw di kau.



3
Ta kẻ dã nhân đi tu giữa rừng hoang
Ta dứt bỏ cuộc đời
Ta không làm kiếp người
Ta nhìn cuộc đời bằng ánh mắt cú mèo
Ta không thèm sống đời người
Ta không có thời xuân, nổi trôi
Mắt ta đỏ ngầu
Ta nhìn cuộc đời vết lửa loang
Đôi mắt ánh lửa của bầy cú mèo
Kiếp đời tối tăm lòng cô quạnh giữa màn đêm
Ta nhìn tất cả kẻ ngu
Bọn chúng đắc ý cười về ta.            




                





4
Rai manuis kau o thau
Dun-ya o ligaih yau ni thei pajieng kau marai
Kau si klak nâgar klak palei
Kau caok di Po habar brei kau yau ni
Blaoh ye kau gilac caok ka bhap bini
Kau mbang aia mata cih ariya yau urang gila
Rai urak ni rup thei thei caga
Kau ye urang gila khik nâm sakarai
Kau kacah hatai brai
Malam sup kau rawai tangin o thei daong
Kau si tak rup drei kau ginaong
Kau daok sa drei kau tapong kang maong lingik.


4
Ta không nhận nhìn đời người
Cõi đời quanh co ai xui ta về đây?
Ta sẽ bỏ xứ sở, bỏ làng quê
Ta khóc hỏi lại thần linh, ai xui ta về đây?
Rồi ta lại sụt sùi về dân gian
Ta nuốt nước mắt rồi làm thơ như kẻ dại
Cuộc đời bây giờ mệnh ai nấy lo
Còn ta kẻ dại giữ gìn sử sách
Ta tan nát lòng
Đêm tối ta nhờ vả ai chẳng được
Ta gần như tự sát, bỏ bê người đời
Ta ở một mình ngóng trời nhìn đời.








5
Pagé kau madeh raiy rup drei
Mata glang atah kau war drei di dun-ya
Rai manuis kau luai taha
Kau o hu prân klak abih nâm sakarai
Rai manuis kau o juak takai
Kau damân lo rai dam klak thaoh
Kau makaik caglaoh ca-mbraoh
Kau o takrâ mata caglaoh o thau nao hataw.

5
Sáng sớm thức dậy thân ta mỏi mòn
Mắt nhìn về phía xa ta bỏ quên mình
Đời người ta để già nua
Ta không còn hơi sức bỏ tất cả sử sách
Ta không làm kiếp người
Ta tiếc nuối thời xuân
Ta hụt hẫng bực bội
Ta không ưa đời, đôi mắt mù lòa chẳng biết đi đâu.



6
Kau lac kau hagait o thau
Kau bac tagok glaong jang yau urang gila
Kau o krân nâm kal di sakarai tapa
Kau o takrâ dun-ya mbuah kar lo di Po
Nâm kal dam kau thau o
Kau oh takrâ, kau o thau rai manuis
Rai kau ye luic puic
Kau bac tagok glaong gilac huec urang gila.

6
Ta bảo ta không biết gì
Ta học lên cao mà như kẻ dại
Ta không nhận nhìn dấu vết lịch sử đã qua
Ta không nhận nhìn đời oán trách thần linh
Dấu vết thời xuân ta không nhận nhìn
Ta không ưa đời người, ta không nhận nhìn kiếp người
Đời ta hụt hẫng
Ta học lên cao lại e kẻ ngu dại.



7
Kau lac kau o ngap ariya
Urang lac kau gila bataok o jak
Ariya ngap mâng urang gila
Akhar tapuk klak thaoh o hu ar
Kau ngap manuis biak kan
Kau gila halar daok di ala
Khaol nyu klao di kau ngap ariya
Ngap mathaik aek lipa o duah mbang
Kau lac kau ra khang kadang
Kau o mbang lisei tok mbang aia mata di dun-ya. 


7
Ta bảo ta không làm thơ
Người ta bảo ta dại chẳng khôn
Bài thơ làm từ kẻ dại
Chữ nghĩa không giá trị
Ta làm người khó thay
Ta dại nên xếp sau người đời
Lũ kẻ ngu cười tại sao ta làm thơ
Bộ dạng đói nghèo không chịu làm ăn
Ta bảo ta kẻ mạnh mẽ
Ta không nuốt cơm, ta nuốt nước mắt trên cõi đời.





8
Kau prew di riyak
Tathik praong kau yak sap di aia
Mbang aia tathik mbang aia mata
Kau haok aia mata di riyak
Mbang aia tathik mbang aia riyak
Tathik paoh riyak bak mbaok mata
Kau luai rup limnah ka riyak
Riyak thek ba tamâ dalam... 





8
Ta thét theo sóng biển
Giọng ta nát tan hòa vào biển cả
Nuốt nước biển, nuốt nước mắt
Nước mắt ta rơi tan vào sóng biển
Nuốt nước biển, nuốt bọt sóng
Biển đập sóng vỗ ướt đầy khuôn mặt
Để ta hiến thân mình cho sóng biển cuộn đi
Sóng cuốn trôi vào sâu...

9
Kau klak tanâh mukkei nao atah
Kau klak tathik limah ka jaguk
Jalan nao o ndap ralo aluk
Kau mata ghueh juk ralan tamâ nâgar Kur
Kau klak nâgar nao tal Phnom Pénh
Kau linyaiy gilac yér tangin rawai kau daok hapak
Kau urang o hu aia
Kau o thau rup pabhap mata o krân thei.




9
Ta bỏ đất đai tổ tiên ra đi
Ta bỏ biển cả, hiến dâng cho kẻ lạ
Con đường gồ ghề dằn mặt
Nhìn về phía trước ta đến Kampuchea
Ta bỏ xứ sở, ra đi tận Phnôm Pênh
Ta ngoảnh lại, tay sờ lối: Ta đang ở đâu?
Ta kẻ vong quốc
Ta không nhận nhìn mình và cũng không nhận nhìn ai.




















Thasit
(Thơ lẻ)





Halei?

1
Kau cih ariya di tathik
Kau pa-ndik hatai maong riyak
Kau patuh aia hep di pa-ndiak
Ariya o hu suan trak hatai lo
Kau si nao halei ka njuer njac
Kau kac labang di ala tathik
Také kapal di dalah aia ndik tapa di dalah riyak
Nao di angaok nao di ala
Aia tathik paoh riyak glaong matâh adarha
Kau duah halei caik hatai
Kau duah danaok halei caik ariya
Kau puec ariya di riyak
Riyak paoh sap tuei ariya.




Ở đâu?

1
Ta làm thơ giữa bãi biển
Ta đây kẻ nát lòng nhìn sóng cuộn
Mồ hôi toát ra giữa trời nắng
Bài thơ vong hồn nặng trĩu
Ta đi đâu để được nhẹ nhõm?
Đào đường hầm giữa biển sâu
Hay cưỡi con sóng với tấm ván lướt bề mặt?
Cưỡi con sóng hay đi dưới mặt biển?
Biển vỗ sóng cao lưng chừng trời
Ta tìm đâu nơi cho con tim
Ta tìm chốn nào để lưu lại ariya?
Ta ngâm thơ theo cơn sóng
Cơn sóng vỗ lại theo lời thơ.




2
Ong glang anak biai Cam mânyum aia tathik
Grap mâkal biak ralo khik habar khing ka thraong
Di grep nâgar halei hu gilaong
Kau si kac labang di ala tathik
Bimong kalan ban bingu khan aw ragam tamia
Ngap habar thraong hamiét yau aia tathik
Kac labang nao ala tathik
Gilaong ni dandep kawek lei?
Hu pak halei dandep kawek lei?
Urang di harei ni o thau khik kaya mâkal.




2
Tác giả Glang anak bảo Cham uống cạn đại dương
Di sản thuở xưa làm sao được bảo tồn?
Khắp xứ sở đâu là nẻo đường?
Ta sẽ đào hầm dưới biển sâu
Đền tháp, hoa văn vải thêu, nhạc cụ
Làm sao hiện hữu mãi như nước biển?
Ta muốn đưa  tháp giấu dưới biển sâu
Đào hầm dưới đại dương
Nơi này có kín chăng?
Hay ở nơi nào khác bí mật
Di sản hôm nay người đời chẳng biết giữ.











Sap adaoh adei glang pabaow

Harek mada hala jaw pabaow kiel
Ralong tanran taginum cang haluei
Adei kamei sap adaoh tian ceh buei
Sap adaoh danây ralong pacei tuei mârat bital

Nai daoh suah suah di ralong tanran
Pacei cheh chai takai ralong yam bidrah
Mata maong bijip pang sap adaoh tian pacei ranam anit
Kadha adaoh ra mâhit dom panuec ranam

Mârat tuei pacei mârat bital
Mata nai juk wil glang mata pacei
Gaok gep tian likei ranam bidrah
Taginum ba haluei aia harei kacah pa-ndiak

Adei di ralong tian that tiak
Harek jaw mblak di ralong haluei
Takrâ sap adei pacei tuei
Tian that tiak cheh buei ralo anit ranam.




Tiếng hát cô gái chăn cừu

Cừu gặm cỏ non lá xanh
Rừng thưa phẳng táp mây kéo tỏa quanh
Em cất lên giọng hát vui thích
Tiếng hát vang lên rừng thưa, chàng tìm quyết cho được

Em thấp thoáng giữa rừng thưa
Chàng thích quyết tìm, chân bước nhanh cho kịp
Nghe tiếng hát lòng chàng động lay
Giọng hát chàng nghe bao yêu thương

Gắng tìm, chàng tìm cho được
Mắt em đen tròn nhìn mắt chàng trai
Gặp em lòng chàng lay động nhanh
Mây kéo tỏa mát, mặt trời thôi không còn nóng

Em hát giữa rừng thưa, bao lòng nặng tình
Cỏ xanh xanh đậm, rừng thưa phủ bóng
Yêu giọng hát chàng quyết theo
Lòng nặng tình thiết tha yêu thương.











Kamei dara di pagé

Aia kakuer ndam tanrak aia harei pachang
Adei kamei dara pachang maong di mblang tanran
Aia kakuer pagé jangaih o li-an
Tangin pati patih adei apan dom hala harek mâda
Aia kakuer njaoh di kalik patih dara
Mâ-in rah aia kakuer pathah tangin aw
Pagé séh mâlang daoh danây sa drei cruw
Aia harei tagok rao lingik taginum salih bhong
Mbaok adei baoh dién aia kakuer laik ndong
Urang lakei glang tathuik bhong anit ranam kamei dara
Chéh mâlang phun hapak bhong hala
Min mâlang abih kamei dara di harek mâda aia kakuer ndam.







Cô gái lúc ban mai

Giọt sương đọng, nắng chói chang
Em ngắm nhìn đồng quê
Sương trong không hề lạnh
Bàn tay trắng em nắm lấy cỏ non
Sương nhỏ xuống làn da
Em dạo chơi sương ướt áo
Sáo hót vang giữa ban mai tươi đẹp
Mặt trời lên, mây trời ửng đỏ
Má lúm đồng tiền giọt sương đọng
Từ đằng xa chàng ngắm em ngọt ngào
Tươi đẹp lắm cây lá ửng đỏ
Nhưng đẹp hơn cả cô gái giữa cỏ non đọng sương.











GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM CỦA SRI SAMRI

Sri Samri, còn có bút danh khác là Sri Thraoh, tên khai sinh là Kiều Dung, sinh năm 1989, người Chăm ở làng Văn Lâm (Palei Ram), tỉnh Ninh Thuận.

- Cử nhân ngành Nhân học (Anthropology) trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Tp. HCM.

- Các tác phẩm của tác giả:

I. Thơ tiếng Chăm

  - Chà Bang, 2015
  - Tathik, 2015
  - Klaoh hatai, 2018

II. Thơ tiếng Việt

    Xứ sở của ta, 2016

II. Công trình nghiên cứu khoa học

- Sự biến đổi tổ chức cộng đồng người Stiêng (2013)
- Sự hình thành tôn giáo Bàni (2018)

III. Dự án chính trị

- Chủ nghĩa ly khai xét lại (2018)











                         


Địa chỉ liên hệ: KIỀU DUNG
Văn Lâm 3, Phước Nam, Thuận Nam, Ninh Thuận
                          Tel: (+84)983867006








[1] Vũ trụ quan của Chăm là trời, biển, thần, ma. Điều này tương tự vũ trụ quan của người Việt là trời, đất, quỷ, thần.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Samri vs Satan

Samri là Caliph cho người Bani