LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Lý luận chính trị cho người Chăm và thế giới
CHỦ
NGHĨA LY KHAI XÉT LẠI
Sri
Samri, 2019
Quan
điểm chính trị của tôi
Tôi
bắt đầu hoạt động văn hóa, viết báo, làm thơ từ năm 2011, khi đó tôi còn là
sinh viên năm 2. Cộng đồng Chăm biết đến tôi qua bài viết "Trúng
apuh".
Tư
tưởng chính trị của tôi được chia làm 3 thời kỳ
1-
Trước năm 2013: Thời kỳ này tôi vẫn còn là một người trung lập, không theo phe
nhóm nào.
2- Từ
năm 2013 đến 2015: Lúc này tôi đã có chính kiến nhưng suy nghĩ còn non. Tôi đã
theo quan điểm của các phe nhóm ly khai như Inrasara. Ysa Cosiem, TS. Quãng Đại
Cẩn...
Thời
gian này tôi có tham gia hoạt động trong Ban biên tập Tagalau, phụ trách mục
Sáng tác tiếng Chăm. Tôi chịu ảnh hưởng tư tưởng từ họ. Điển hình cho khuynh
hướng này là tôi đã ủng hộ chữ akhar thrah cải biên của Ban Biên Soạn Sách Chữ
Chăm. Tôi đã cố gắng biện hộ cho các phe nhóm ly khai này.
3- Từ
năm 2016: Tư tưởng của tôi ở thời gian này đã chín chắn. Sau một thời gian
nghiên cứu triết học, tôi đã tìm được một hướng đi mới sẽ thống nhất được cả
thế giới, tất nhiên là thống nhất luôn cả Chăm, nhưng tôi phải giải quyết vấn
đề Chăm trước.
Để
thể hiện chính kiến của mình, tôi đã viết "Mặt trái của thế lực văn hóa ly
khai" để phản biện phe nhóm của Inrasara. Tôi nghĩ mình phải xét lại đường
lối hoạt động của họ vì tôi nhận ra sự bế tắc trong đó.
Tư
duy biện chứng về sự phát triển giữa chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa ly khai của
tôi chỉ mới hình thành từ năm 2016 nhưng sơ đồ thống nhất tôn giáo tôi đã vẽ từ
cuối năm 2013.
Tư
tưởng chính trị của tôi phát triển theo sự gia tăng kiến thức chính trị của
mình. Tôi bắt đầu nghiên cứu chính trị từ năm 2013 nhưng tôi chỉ thực sự tìm
được triết lý của Chủ nghĩa ly khai xét lại từ năm 2016.
Tư duy biện chứng của Sri Samri là
gì?
Theo khái niệm biện chứng của Georg
Wilhelm Friedrich Hegel, tư tưởng của con người phát triển tuần tự, gồm tam
đoạn luận:
1. Chính đề: Quan điểm khởi đầu, tôi
gọi là chủ nghĩa bảo thủ.
2. Phản đề: Quan điểm đối lập với chính đề, tôi gọi là chủ nghĩa ly khai.
3. Hợp đề: Sự thống nhất giữa chính
đề và phản đề, tôi gọi là chủ nghĩa ly khai xét lại.
TUYÊN
NGÔN
Toàn
cầu hóa là sự nghiệp thống nhất loài người trong toàn cầu. Thế giới là một
chỉnh thể thống nhất. Mọi thành tố trong hệ thống của thế giới đều được bảo
toàn trong trạng thái chuyển động. Tất cả các dân tộc, các chủng tộc và các giá
trị của nền văn hóa loài người đều được bảo toàn trong quá trình phát triển.
1. Về
tôn giáo, thế giới nằm dưới sự chi phối của ba bộ phận là Christianity, Islam
và chủ nghĩa vô thần cộng sản. Chủ nghĩa vô thần đóng vai trò là trung gian kết
nối giữa các thành viên thuộc các tôn giáo khác nhau.
2. Về
sứ mệnh lãnh đạo, mô hình biện chứng mới được thiết lập cho loài người là mô
hình biện chứng về sự phát triển, đó là sự đấu tranh và thống nhất giữa chủ
nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa ly khai.
3.
Phép cân bằng động là phương pháp luận triết học mới nhất cho loài người dựa
vào tư duy tổng hợp. Phương pháp này tạo ra "sự lắp ráp", "sự
kết dính" các thành tố trong xã hội lại thành một khối thống nhất để bảo
toàn các thành tố của nó trong trạng thái chuyển động.
LÝ
LUẬN
I- HỆ
THỐNG
1.
Khái niệm hệ thống
Hệ
thống (system) là tập hợp các yếu tố liên kết với nhau và toàn bộ tập hợp đó có
tính chất không thể quy về thành tính chất của từng yếu tố, từng mối liên kết
đứng riêng rẽ.
Các
yếu tố được hiểu là các bộ phận của hệ thống, không chia nhỏ thêm được nữa
trong cách xem xét vấn đề. Ví dụ, trong tuyên ngôn của Chủ nghĩa ly khai xét
lại, các yếu tố bao trùm hệ thống tôn giáo của xã hội loài người trong toàn cầu
gồm có ba bộ phận là Christianity, Islam và chủ nghĩa vô thần cộng sản. Ba bộ
phận này chi phối các tôn giáo còn lại.
Các
mối liên kết (connections) được hiểu là sự liên hệ, trao đổi, tương tác, ảnh
hưởng, phụ thuộc... giữa các yếu tố. Khi nói hai yếu tố liên kết với nhau, có
nghĩa là yếu tố này tác động lên yếu tố kia và ngược lại. Tập hợp các mối liên
kết giữa các yếu tố được gọi là cấu trúc của hệ thống. Trong hệ thống xã hội,
có nhiều mối liên kết dựa trên thân tộc, quyền lực, văn hóa, tôn giáo...Ví dụ,
sự liên kết giữa các dân tộc cùng tôn giáo với nhau. Chi tiết hơn cả là sự liên
kết giữa các cá nhân có cùng niềm tin tôn giáo. Mối liên kết dựa trên ý thức
tôn giáo được gọi là chức năng cấu trúc của tôn giáo.
Cấu
trúc là khái niệm rất quan trọng trong lĩnh vực khoa học xã hội. Theo định
nghĩa của Arthur Reginald Radcliffe-Brown:
"Cơ
quan sinh vật là sự liên kết giữa các tế bào và các chất lỏng với nhau được sắp
xếp trong mối quan hệ giữa cái này với cái khác, nó không phải là một tổng số
mà là sự liên kết của toàn bộ sự sống. Hệ thống các mối quan hệ những đơn vị có
liên quan là một cấu trúc hữu cơ. Bản thân tổ chức không phải là cấu trúc; mà
là tập hợp các đơn vị (bao gồm các tế bào và các phân tử) được sắp xếp trong
một cấu trúc, tức là trong tập hợp các mối quan hệ; tổ chức có cấu trúc. Và vì
vậy cấu trúc có thể được định nghĩa như là một tập hợp các mối quan hệ giữa
những thực thể. Qua thời gian, các tế bào hợp thành của nó không còn nguyên vẹn
như trước. Nhưng sự sắp xếp cấu trúc của các đơn vị cấu thành vẫn giữ nguyên."
Vì
tôn giáo có vai trò tạo cấu trúc cho hệ thống xã hội nên nó gắn liền với hệ
thống xã hội đó về ý thức hệ chính trị. Đó là nguyên nhân không thể tách rời
tôn giáo với chính trị.
Tính
toàn thể của hệ thống (wholeness) là những tính chất mà từng yếu tố, từng mối
liên kết đứng riêng rẽ không có, nghĩa là “cái toàn thể lớn hơn tổng các bộ
phận của nó”. Ví dụ, máy bay ngoài những tính chất của các bộ phận ra, nó còn
có tính toàn thể là bay, đặc tính này không thể quy về các bộ phận riêng rẽ của
máy bay.
Khái niệm
hệ thống mang tính tương đối, một yếu tố thuộc hệ thống cho trước, trong cách
xem xét khác, nó lại thỏa mãn định nghĩa hệ thống. Để phân biệt người ta gọi nó
là hệ dưới (subsystem), còn hệ thống lớn hơn chứa hệ thống nhỏ đó được gọi là
hệ trên (supersystem). Ví dụ, khi chọn xã hội loài người trong toàn cầu là một
hệ thống toàn vẹn về tôn giáo thì bản thân các yếu tố Christianity, Islam, cộng
sản trong cách xem xét chi tiết hơn cũng thỏa mãn định nghĩa hệ thống, được gọi
là hệ dưới; khi đó hệ thống tôn giáo trong toàn cầu của xã hội loài người được
gọi là hệ trên.
Khái
niệm hệ thống mang tính khái quát rất cao, bất kỳ đối tượng vật chất, tinh thần
nào đều có thể xem là hệ thống.
Ví
dụ:
Phân
tử nước là tập hợp các yếu tố gồm hai nguyên tử hyđrô và một nguyên tử ôxy liên
kết với nhau, toàn bộ phân tử nước có các tính chất: không cháy, lỏng ở nhiệt
độ phòng, đó là tính toàn thể, không thể quy về thành những tính chất của các
nguyên tử hyđrô, ôxy.
Một
từ ngữ, ví dụ từ "học", là tập hợp các chữ cái và dấu liên kết với
nhau và toàn bộ từ có nghĩa không thể quy về thành nghĩa của từng chữ cái và
dấu đứng riêng rẽ.
2. Độ
bền của cấu trúc xã hội
Hệ
thống tộc người sẽ bị phá hủy trong hai trường hợp
- Tất
cả các phần tử (các yếu tố) của hệ thống bị tiêu diệt: Trong lịch sử nhân loại
nhiều trường hợp các bộ lạc tiêu diệt nhau, giết hết các thành viên trong bộ
lạc của kẻ địch, tạo ra nạn diệt chủng dẫn đến sự tuyệt chủng của các tộc
người.
- Các
mối liên kết (cấu trúc) giữa các phần tử của hệ thống bị phá hủy: Các mối liên
kết trong hệ thống xã hội là tôn giáo, văn hóa, tổ chức cộng đồng... Khi các
nhân tố là mối liên kết này bị phá hủy thì hệ thống sẽ tan rã. Đây là con đường
bị đồng hóa và tiêu vong ngay cả ở thời bình. Lúc này cộng đồng sẽ không tồn
tại.
Ở đây
chúng ta phân tích sâu vào trường hợp thứ hai. Độ bền của cấu trúc là sự gắn bó
khăng khít giữa các yếu tố trong hệ thống. Trong phạm vi bài này ta xét độ bền
của cấu trúc cộng đồng, xã hội.
Cấu
trúc cộng đồng là tập hợp các mối liên kết giữa các cá nhân trong cộng đồng.
Con người thường liên kết với nhau dựa trên tôn giáo, thân tộc, tổ chức cộng
đồng... Trong đó mối liên kết dựa trên tôn giáo là yếu tố mang màu sắc chính
trị. Mối liên kết dựa trên thân tộc, tức là quan hệ giữa các thành viên trong
dòng họ thường chỉ là quan hệ huyết thống.
Bây
giờ ta xét độ bền về mối liên kết tôn giáo. Không phải tôn giáo nào cũng có độ
bền cấu trúc như nhau. Trên thực tế nhiều xã hội theo các tôn giáo nguyên thuỷ
như tín ngưỡng vật linh giáo có cấu trúc khá lỏng lẻo, độ bền không cao dẫn đến
tình trạng là cộng đồng của họ bị rạn nứt, các mối liên kết bị "đứt",
không đứng vững trước sự xâm nhập từ xã hội bên ngoài, hậu quả là họ bị đồng
hóa.
Cấu
trúc xã hội là một khái niệm không nhìn thấy được nên nó rất trừu tượng. Để
phát hiện ra cấu trúc xã hội ta phải quan sát các sự kiện lặp đi lặp lại theo
các tần số của nó.
Cấu
trúc nào có tần số càng lớn thì càng bền. Đây chính là nguyên lý.
Điều
này có nghĩa là tôn giáo nào được thực hành càng nhiều thì mối liên kết giữa
các thành viên càng chặt chẽ.
Vấn
đề phát sinh đối với tín ngưỡng bản địa Chăm là khi thực hành tôn giáo nhiều
như vậy thì sẽ gây tốn kém tiền của, đặc biệt là các tập tục cúng tế. Giải pháp
cho vấn đề này là ta phải khuyến khích người Chăm cầu nguyện nhiều để làm tăng
độ bền của cấu trúc cộng đồng. Tuy nhiên chúng ta phải hạn chế các tục cúng tế.
3.
Bảo vệ sự tồn tại của các tộc người thiểu số
Có
bao giờ bạn nghĩ đến một viễn cảnh thế giới này chỉ còn duy nhất một chủng tộc
tồn tại, cụ thể là chỉ còn sự hiện hữu của 1 trong 4 đại chủng là Europeoid,
Mongoloid, Negroid, Australoid? Hoặc một viễn cảnh tồi tệ hơn là chỉ còn duy
nhất một dân tộc tồn tại? Viễn cảnh này hoàn toàn có thể xảy ra nếu chúng ta
không có chính sách ngay từ bây giờ.
Tộc
người cần được nhìn nhận theo lý thuyết hệ thống. Hệ thống là tập hợp các phần
tử liên kết với nhau và nó có tính toàn thể.
Trước
hết ta bàn các phần tử của hệ thống tộc người. Nó có nghĩa là tập hợp các thành
viên của tộc người. Trong lịch sử nhiều tộc người đã bị tuyệt chủng do chiến
tranh vì các thành viên của tộc người đó bị giết hết.
Sự
tiêu vong của tộc người vẫn diễn ra ngay trong thời bình khi các mối liên kết
tộc người bị "đứt" hoặc bị sáp nhập vào một tộc người đông hơn. Các
mối liên kết tộc người thể hiện qua tôn giáo, văn hóa, tổ chức cộng đồng...
Giải
pháp cho vấn đề này là ta phải tăng kích thước cho hệ thống và tăng các mối
liên kết giữa các phần tử trong hệ thống. Tăng kích thước là tăng số lượng các
phần tử, tức là tăng dân số cho các tộc người ít dân. Đồng thời ta phải thiết
lập thêm các mối quan hệ trong tộc người thiểu số như tăng cường tổ chức cộng
đồng, tạo cấu trúc tôn giáo bền vững...
Trước khi xảy ra nạn diệt chủng, dân số Chăm ít
nhất là phải trên 1.000.000 người. Theo PB. Lafont dân số Chăm cuối thế kỷ 19
trên lãnh thổ cũ của Champa ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận là 40.000
người, ngày nay dân số Chăm ở hai tỉnh này là 100.000 người. Nếu tính cả người
Chăm ở An Giang và người Chăm Hroi ở Phú Yên thì dân số Chăm ở Việt Nam ngày
nay có khoảng 200.000 người. Dân số Chăm phục hồi quá chậm.
Để thoát khỏi nguy cơ bị tuyệt chủng
và tiêu vong, chúng ta phải khôi phục dân số. Chăm phải tăng dân số lên 1.000.000,
có như vậy chúng ta mới đủ sức để cạnh tranh với các cộng đồng dân tộc khác.
Thời gian để chúng ta khôi phục dân số từ 200.000
người lên 1.000.000 người có lẽ phải mất 1 thế kỷ. Hy vọng ở thế kỷ 22,
dân số Chăm ở Việt Nam là 1.000.000 người, có như vậy chúng ta mới có đủ cơ hội
để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Các vấn đề về tộc người thiểu số không thể giải quyết qua nền dân chủ, nghĩa là không thể giải quyết qua bầu cử vì họ có quá ít dân số, không thể thắng tộc người đa số bởi quan điểm của nền dân chủ là mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc bầu cử, theo nguyên tắc đa số thắng thiểu số.
4. Vấn đề cải đạo của tộc người thiểu số
Một
cộng đồng người có thể cải đạo từ tôn giáo này sang tôn giáo khác, điều này là
sự thay đổi rất rõ rệt về cấu trúc tôn giáo. Cấu trúc tôn giáo là trật tự liên
kết giữa các cá nhân trong cộng đồng tôn giáo. Các tôn giáo khác nhau có sự
ngăn cách về cấu trúc khiến các tín đồ giữa tôn giáo này có một khoảng cách về
lối sống.
Điều
này có nghĩa là, cộng đồng nhỏ theo tôn giáo khác với cộng đồng lớn thì cộng
đồng nhỏ đó khó hoà nhập với cộng đồng lớn nhưng chính sự ngăn cách này lại tạo
điều kiện cho cộng đồng nhỏ duy trì được sự tồn tại độc lập của mình.
Khi
một cộng đồng nhỏ tiếp nhận tôn giáo từ một cộng lớn hơn thì sẽ có sự tương
đồng về cấu trúc tôn giáo. Cấu trúc xã hội trong một cộng đồng không phải chỉ
có tôn giáo, cấu trúc còn bao gồm cả thân tộc, quyền lực, tổ chức cộng đồng...
Khi họ theo cùng một tôn giáo thì cấu trúc tôn giáo đã giống nhau, nếu cộng
đồng nhỏ không có sự khác biệt về các hình thức cấu trúc khác trong xã hội thì
cộng đồng nhỏ đó rất dễ bị "hoà tan", bị sáp nhập vào một cộng đồng
lớn có cùng tôn giáo với họ.
Vì
vậy bên cạnh cấu trúc tôn giáo, các cộng đồng nhỏ của các tộc người thiểu số
phải có các hình thức cấu trúc riêng cho xã hội mình. Cấu trúc có thể được tạo
dựng và thay thế, miễn sao có sự liên kết vững chắc giữa các thành viên để tạo
thành một cộng đồng.
5.
Chức năng phần tử và chức năng cấu trúc
Chức
năng phần tử là vai trò đáp ứng nhu cầu cá nhân như ăn uống, giải trí... Nhu
cầu cá nhân đặt nặng yêu cầu về kinh tế. Một con người có thể sống thoải mái
chỉ cần có nhiều tiền mà không cần phải hiểu biết nhiều về văn hóa.
Chức
năng cấu trúc là vai trò liên kết các cá nhân để tạo thành một cộng đồng. Sự
liên kết này dựa vào tôn giáo, văn hóa... Cấu trúc này chỉ được tạo dựng bởi
những người am hiểu văn hóa. Các sản phẩm văn hóa đóng vai trò tạo cấu trúc cho
xã hội. Kinh tế chỉ đóng vai trò thứ yếu, không phải là yếu tố quan trọng nhất
đối với cấu trúc xã hội.
Một
cộng đồng người nghèo đói nhưng vẫn liên kết được với nhau chặt chẽ và bền vững
thông qua tôn giáo, văn hóa, tổ chức cộng đồng... tuy nhiên nhiều cộng đồng
người giàu có vẫn tan vỡ do mối liên kết giữa các thành viên lỏng lẻo, tức là
tôn giáo, văn hóa của họ không tạo được cấu trúc bền vững.
Tuy
nhiên, hoạt động kinh tế là nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức cộng đồng. Trong
nhiều trường hợp vì nhu cầu việc làm nhiều người đã rời bỏ cộng đồng của mình
để đến sinh sống ở những khu vực khác, cộng cư với dân tộc khác khiến họ dễ bị
đồng hóa. Khi con người sinh sống ở những vùng miền cách xa nhau thì yêu cầu tổ
chức cộng đồng không thể đảm bảo. Nhu cầu kinh tế có thể gián tiếp làm giải thể
cấu trúc xã hội. Suy cho cùng, kinh tế chỉ tác động đến việc tổ chức cộng đồng,
bản thân kinh tế không phải là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến cấu trúc xã hội;
tổ chức cộng đồng mới là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến cấu trúc xã hội.
Hoạt
động văn hóa là công tác cộng đồng và nó đóng vai trò tạo dựng cấu trúc cho xã
hội. Tôn giáo, văn hóa chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với nhu cầu của cá nhân
nhưng nó là yếu tố sống còn đối với cộng đồng.
6. Bộ
máy quan liêu
6.1.
Khái niệm
Do
chịu ảnh hưởng từ vết xe đổ trong bộ máy quan liêu bao cấp của cộng sản, nhiều
người ở Việt Nam thường có ác cảm với thuật ngữ "bộ máy quan liêu",
nguyên nhân là do họ không hiểu thuật ngữ này.
Thực
ra thuật ngữ "bộ máy quan liêu" không xuất phát từ mô hình tổ chức
của cộng sản, nó xuất phát từ lý thuyết hành động xã hội của Max Weber, một nhà
xã hội học người Đức.
Theo
Max Weber, hành động xã hội chỉ được thực hiện dưới sự chỉ đạo của một lực
lượng tinh hoa để cưỡng chế các cá nhân, gắn kết các cá nhân lại để tạo thành
một tập hợp người nhằm đạt mục đích. Lực lượng tinh hoa đó được gọi là bộ máy
quan liêu. Người đứng đầu bộ máy quan liêu được gọi là đầu sỏ.
Bộ
máy quan liêu có tác dụng cưỡng chế các phần tử liên kết với nhau để tạo thành
một hệ thống chuyển động có hướng.
Bộ
máy quan liêu có bản chất là sự phân bậc về quyền hạn. Cấp dưới phục tùng cấp
trên. Các cơ quan hành chính của các tổ chức là một bộ máy quan liêu. Các tổ
chức không có sự bình đẳng về quyền hạn giữa các thành viên. Cấp dưới phải nằm
dưới sự chỉ đạo của cấp trên. Giả sử có sự bình đẳng về quyền hạn trong một
nhóm người thì nhóm người đó sẽ không biết nghe ai và tổ chức không tồn tại.
Bộ
máy quan liêu là điều kiện căn bản để hình thành một tổ chức.
Bộ
máy quan liêu trong quân đội là điển hình nhất. Quân đội là môi trường của mệnh
lệnh. Nếu cấp dưới chống lệnh từ cấp trên thì sẽ bị tiêu diệt. Quân đội được tổ
chức theo cấp bậc rất khắt khe.
Lưu ý
rằng, bộ máy quan liêu là lực lượng đại diện cho tiếng nói của toàn thể hệ
thống nhưng chúng ta chỉ trung thành với tính toàn thể của hệ thống, chứ không
trung thành với bộ máy quan liêu, vì trong nhiều trường hợp bộ máy quan liêu có
biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, độc tài... Đối với hệ thống dân tộc, tính
toàn thể là tinh thần dân tộc, bản sắc dân tộc... Đối với hệ thống quốc gia,
tính toàn thể là lòng yêu nước... Đối với hệ thống tôn giáo, tính toàn thể là
đức tin...
6.2.
Quốc gia là gì? Quốc gia có phải là của toàn dân?
Quốc
gia là bộ máy quan liêu có quân đội và lãnh thổ. Mọi tổ chức đều có bộ máy quan
liêu nhưng chỉ có tổ chức nhà nước là bộ máy quan liêu có quân đội và lãnh thổ.
Nhà
nước không bao giờ là của toàn dân.
Đã
nói tới bộ máy quan liêu thì luôn luôn là sự bất bình đẳng vì bộ máy quan liêu
có bản chất là sự phân bậc về quyền lực, trong đó quyền lực được xếp theo hình
kim tự tháp, quần chúng ở dưới đáy, càng lên cao thì quyền lực càng tập trung
vào tay của một tập đoàn chính trị, và đỉnh của tháp là đầu sỏ chính trị, nghĩa
là một người đứng đầu bộ máy nhà nước.
Mọi
xã hội muốn tồn tại thì điều kiện đầu tiên là họ phải có tổ chức, trong khi đó
hạt nhân của tổ chức là bộ máy quan liêu. Điều này có nghĩa là xã hội loài
người không bao giờ là bình đẳng.
Sự
bất bình đẳng là quy luật tự nhiên để hình thành nên các quần thể của các loài
động vật. Các loài như ong đều có ong chúa, kiến đều có kiến chúa, đàn bò, đàn
khỉ đều có con đầu đàn ... Hiển nhiên là các con vật đứng đầu quần thể của mình
đều chiếm hữu những quyền lợi tối thượng.
Xã
hội loài người cũng tuân theo quy luật của tự nhiên. Tuy nhiên chúng ta là loài
sinh vật đặc biệt nên chúng ta biết cải tạo xã hội và chúng ta đã xóa bỏ nền
quân chủ chuyên chế, tức là xóa bỏ nhà nước do vua nắm quyền tuyệt đối. Nhưng
chúng ta không bao giờ xóa bỏ hẳn quy luật bất bình đẳng của các loài sinh vật.
Thực
ra loài người chỉ chuyển đổi từ mô hình tổ chức của bộ máy nhà nước chuyên chế
cá nhân thành bộ máy nhà nước chuyên chế tập thể.
Nhà
nước chuyên chế cá nhân là do một người nắm quyền tuyệt đối, nhà nước chuyên
chế tập thể là do một xã hội người nắm quyền thống trị các xã hội khác cùng
chung sống trong một quốc gia.
Có
thể chia nhà nước chuyên chế tập thể thành nhà nước chuyên chế dân tộc và nhà
nước chuyên chế tôn giáo. Hầu hết các quốc gia hiện nay đều có chuyên chế dân
tộc, tức là tổ chức nhà nước trong đó một dân tộc có quyền lợi lên trên các dân
tộc khác cùng chung sống trong một quốc gia. Một vài trường hợp hiếm là nhà
nước chuyên chế tôn giáo, điển hình là Ấn Độ, nhà nước chuyên chế của đạo Bà La
Môn, không có chuyên chế dân tộc.
Tuy
nhiên người ta thường tổ chức nhà nước theo kiểu kết hợp cả hai mô hình tổ chức
bộ máy nhà nước kể trên, tức là các nhà nước vừa có chuyên chế dân tộc vừa có
chuyên chế tôn giáo. Hầu hết các quốc gia phương Tây vừa có chuyên chế dân tộc
vừa có chuyên chế tôn giáo là Christianity. Hầu hết các quốc gia Trung Đông vừa
có chuyên chế dân tộc vừa có chuyên chế tôn giáo là Islam. Các quốc gia cộng
sản vừa có chuyên chế dân tộc vừa có chuyên chế cộng sản.
Karl
Marx hiểu rằng nhà nước không bao giờ là của toàn dân nên ông có ảo tưởng muốn
xóa bỏ hoàn toàn quốc gia. Tư tưởng này của ông thực ra là sự đố kỵ của người
Do Thái với các dân tộc có nhà nước vì thời của ông người Do Thái không có nhà
nước.
Quốc
gia là sự bất bình đẳng nhưng chúng ta không bao giờ xóa bỏ được quốc gia, vì
chúng ta chỉ cải thiện được quy luật của tự nhiên, chứ chúng ta không bao giờ
xóa bỏ được quy luật của tự nhiên.
6.3-
Tầng lớp thầy cúng và tu sĩ Bàni
Tầng
lớp thầy cúng chi phối tín ngưỡng dân gian. Tầng lớp tu sĩ thì chi phối giáo
lý, giáo luật Bàni vốn xuất phát từ Islam.
-Thầy
cúng
Tầng
lớp thầy cúng (shaman) là những người lớn tuổi, ít
nhất là trên 60 tuổi, càng lớn tuổi hơn càng được trọng dụng. Tầng lớp này vẫn
còn hiện diện trong cộng đồng Bàni, phụ trách các nghi lễ dân gian của cộng
đồng này. Tầng lớp thầy cúng người Chăm hiện nay cũng tương tự tầng lớp thầy
cúng và già làng của các dân tộc Tây Nguyên.
Các
nghi lễ dân gian do thầy cúng thực hiện có nguồn gốc là tín ngưỡng nguyên thủy.
Tín ngưỡng nguyên thủy là tín ngưỡng bản địa có trước khi Bà La Môn và Islam
được du nhập. Hiện nay cộng đồng Bàni vẫn còn hiện hữu nhiều nghi lễ thuộc tín
ngưỡng bản địa như tục éw baoh, tuh aia....
-Tu
sĩ
Tầng lớp tu sĩ (clergy) của Bàni hiện nay có tiền thân là các giáo sĩ
Islam. Khi Islam được du nhập vào Champa thì chỉ có tầng lớp giáo sĩ mới thực
hiện đúng luật Islam.
Trải
qua quá trình biến đổi, cải tổ thì các giáo sĩ Islam đã được tổ chức thành một
tầng lớp tu sĩ không chỉ đóng vai trò giữ gìn giáo lý, giáo luật cho Bàni mà
còn đảm nhiệm yêu cầu tổ chức xã hội lúc bấy giờ.
Tu sĩ
Bàni đóng vai trò tương tự bộ máy quan liêu, sự sắp xếp về thứ bậc trong vị trí
của các tín đồ và trong nội bộ của tầng lớp tu sĩ. Lực lượng này đóng vai trò
cưỡng chế cá nhân tín đồ để thực hiện hành động xã hội dựa vào thiết chế tôn
giáo.
Khi
người Chăm tiếp nhân Islam thì họ vẫn không từ bỏ tín ngưỡng nguyên thủy của
mình dẫn đến hiện tượng dung hòa giữa Islam và tín ngưỡng bản địa. Bằng chứng
là cho đến nay cơ cấu tổ chức cộng đồng dựa trên nền tảng tín ngưỡng nguyên
thủy vẫn còn tồn tại. Giả thiết nếu người Chăm bỏ tín ngưỡng này khi vào Islam
thì chắc chắc là cơ cấu tổ chức xã hội dựa vào thầy cúng như hiện nay phải bị
giải thể, điều này ngược lại với thực tế là cơ cấu tổ chức dựa vào thầy cúng
vẫn tồn tại.
7.
Khoảng cách địa lý với sự tồn tại độc lập của tộc người
Mối
quan ngại nhất của các tộc người thiểu số là "sự hoà tan", sự sáp
nhập vào một cộng đồng lớn. Bài này sẽ phân tích để làm rõ thêm về vấn đề này.
Khi
một cộng đồng nhỏ sống cạnh một cộng đồng lớn thì cộng đồng nhỏ thường chịu ảnh
hưởng từ cộng đồng lớn từ tôn giáo, văn hoá và cộng đồng nhỏ thường là cộng
đồng bị cai trị. Vì vậy mọi nỗ lực của cộng đồng thiểu số là duy trì sự tồn tại
độc lập của mình.
Cộng
đồng nhỏ có thể tiếp nhận tôn giáo, văn hóa từ cộng đồng lớn nhưng mối quan tâm
của chúng ta không phải là tôn giáo, văn hoá xấu hay tốt. Mối quan tâm của bài
viết này là mối quan hệ giữa tôn giáo, văn hóa với các sự kiện xã hội. Chúng ta
quan tâm đến tôn giáo, văn hoá là vì nó ảnh hưởng tới quyền lực chính trị và sự
tồn vong của tộc người.
Trước
đây khi phương tiện giao thông chưa phát triển, con người đi lại khó khăn, dẫn
đến sự tồn tại biệt lập của các tộc người. Điều này có tác dụng giúp các cộng
đồng nhỏ duy trì sự tồn tại độc lập một cách dễ dàng. Các cộng đồng lớn không
dễ xâm nhập vào cộng đồng nhỏ vì họ phải tốn rất nhiều thời gian để tiếp cận.
Khoảng
cách địa lý cũng giúp các cộng đồng nhỏ có thể bố trí quân lực phòng ngự. Vì
vậy khoảng cách địa lý là một trong những yếu tố giúp hình thành nên các quốc
gia độc lập.
Hiện
nay do phương tiện giao thông phát triển, từ hàng không, hàng hải đến đường bộ,
loài người hầu như đã xoá bỏ khoảng cách về địa lý. Tình hình này dẫn đến khả
năng các cộng đồng lớn dễ dàng xâm nhập vào cộng đồng nhỏ của các tộc người
thiểu số.
Với
tình cảnh như hiện nay thì yếu tố bền vững nhất để chúng ta có thể tận dụng để
bảo vệ sự tồn tại độc lập của các tộc người thiểu số là cấu trúc. Trở lại với
khái niệm cấu trúc, công trình lý luận chính trị của tôi nhấn mạnh vào khái
niệm này.
II.
PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC
1. Mô
hình biện chứng về sự phát triển
1.1-
Phép biện chứng là gì?
1.1.1-
Định nghĩa phép biện chứng
Phép
biện chứng (dialectics) là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập (A) và (-A) cùng
tồn tại thống nhất trong một chỉnh thể. Chỉnh thể là một thực thể hoàn chỉnh,
một hệ thống toàn vẹn.
Hai
mặt đối lập trong phép biện chứng tuy có thuộc tính bài trừ, phủ định nhau
nhưng chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng đồng thời tồn tại và không thể tách
rời. Sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Các
mặt đối lập bao giờ cũng có nhân tố giống nhau, chúng có sự đồng nhất, do đó
mặt đối lập này có thể chuyển hóa sang mặt đối lập kia.
1.1.2-
TRIZ
Mâu
thuẫn của phép biện chứng là mâu thuẫn vật lý (physical contradiction) của
TRIZ, đó là công cụ ứng dụng của phép biện chứng vào các lĩnh vực cụ thể trong
đời sống.
Có ba
loại mâu thuẫn thường gặp khi suy nghĩ, thực hiện giải quyết vấn đề và ra quyết
định được Genrich Saulovich Altshuller tìm ra.
- Mâu
thuẫn hành chính: Biết mục đích để làm của một vấn đề nhưng lại không biết cách
làm để đạt mục đích đó.
Mâu
thuẫn hành chính thường gặp trong cơ quan hành chính khi cấp trên giao nhiệm vụ
cho cấp dưới thường chỉ nêu mục đích cần đạt mà không chỉ cách làm cụ thể để
đạt mục đích đó. Ví dụ, cấp trên chỉ thị: Mỗi người mỗi tháng phải có ít nhất
một sáng kiến, doanh thu năm nay phải tăng 20% so với năm ngoái...
- Mâu
thuẫn kỹ thuật: Đây là mâu thuẫn khi giải quyết được mặt A tốt lên thì khiến
mặt B xấu đi.
Mâu
thuẫn kỹ thuật thường gặp trong chế tạo kỹ thuật công nghệ, máy móc...
Ví
dụ: Để ô tô chạy được trên đường nhiều ổ gà, mô đất đá cản trở thì sàn xe phải
ở vị trí càng cao so với mặt đường càng tốt. Điều này làm trọng tâm của xe ở vị
trí càng cao, càng dễ bị lật.
- Mâu
thuẫn vật lý: Thành phần của hệ thống vừa phải có mặt (A) để đạt mục đích này
và vừa phải có mặt (-A) để đạt mục đích khác trong khi (A) và (-A) là hai mặt
đối lập loại trừ nhau. Mâu thuẫn vật lý thể hiện bản chất của phép biện chứng.
Các
mặt đối lập loại trừ nhau (A) và (-A) thường là trạng thái, tính chất vật lý
của các đối tượng vật chất. Sự tồn tại thống nhất giữa (A) và (-A) trong một
thực thể.
Ví
dụ: Ánh sáng và các hạt cơ bản vừa có tính chất sóng (A), vừa có tính chất hạt
(-A). Tinh thể lỏng (Liquid Crystal), dung dịch rắn (Solid Solutions) là sự tồn
tại thống nhất giữa hai tính chất vật lý rắn và lỏng, tức là các đối tượng này
vừa có tính chất của trạng thái rắn (A) vừa có tính chất của trạng thái lỏng
(-A).
Mâu
thuẫn vật lý là mâu thuẫn thể hiện bản chất của vấn đề. Do vậy để giải quyết
vấn đề ta phải đi từ mâu thuẫn hành chính, kế tiếp là mâu thuẫn kỹ thuật và
điểm “huyệt”, chìa khóa của vấn đề là mâu thuẫn vật lý.
Mâu
thuẫn vật lý là đi ngược lại với logic hình thức (logic truyền thống) do vậy
người ta không thể sử dụng logic hình thức để giải quyết mâu thuẫn vật lý.
Trong trường hợp này, logic biện chứng được xây dựng.
Lưu ý
rằng, bạn cần hiểu các khái niệm mâu thuẫn ở trên theo nghĩa rộng, nghĩa khái
quát. Đừng căn cứ vào tên gọi mà cho rằng khái niệm mâu thuẫn hành chính chỉ có
trong lĩnh vực hành chính, mâu thuẫn kỹ thuật chỉ có trong lĩnh vực kỹ thuật
hay mâu thuẫn vật lý chỉ có trong vật lý học. Về mặt nguyên tắc, chúng đều có
mặt trong các bài toán cụ thể của bất kỳ lĩnh vực nào.
Mâu
thuẫn trong sự phát triển giữa tính ổn định và tính thay đổi được trình bày ở
phần sau cũng là mâu thuẫn vật lý.
1.1.3-
Các ví dụ về TRIZ
Ví dụ
1: Theo G.S. Altshuller, vào năm 800 trước Công nguyên, Carl lên ngôi đại đế
cần phải được sự tấn phong của Giáo hoàng, do Giáo hoàng đội vương miện lên đầu
nhà vua nhưng Carl không ngồi yên cho Giáo hoàng đội. Trong lúc Giáo hoàng nhấc
vương miện để chuẩn bị đội lên đầu Carl thì Carl đã “cướp lấy” vương miện từ
tay Giáo hoàng và tự đội lên đầu mình.
Việc
này xuất hiện các mâu thuẫn như sau:
- Mâu
thuẫn hành chính, nếu Carl để Giáo hoàng đội vương miện cho mình thì hóa ra
Giáo hoàng ban cho Carl quyền làm vua, vì vậy khi nào không thích Giáo hoàng có
thể phế truất. Vậy Carl làm cách nào để Giáo hoàng đừng nghĩ đến chuyện phế
truất mình? Carl muốn gửi thông điệp cảnh cáo tới Giáo hoàng.
- Mâu
thuẫn kỹ thuật
+ Nếu
Carl không cho Giáo hoàng đội vương miện cho mình thì Giáo hoàng hiểu rằng Carl
tự lên ngôi, tự giành quyền lực. Trong trường hợp này Giáo hoàng không có quyền
phế truất Carl nhưng việc lên ngôi không được coi là chính thức, các quan chức
và dân chúng sẽ không phục, thậm chí có thể gây nội chiến.
+ Nếu
Carl để Giáo hoàng đội vương miện cho mình như các vị vua trước đây thì ngôi
vua là hợp lệ, quan chức và dân chúng phục nhưng Giáo hoàng không biết thông
điệp cảnh cáo của Carl.
- Mâu
thuẫn vật lý
Carl
phải cho Giáo hoàng đội vương miện cho mình (A) để việc lên ngôi là chính thức
và không cho Giáo hoàng đội vương miện cho mình (-A) để Giáo hoàng hiểu thông
điệp cánh cáo của mình.
Giải
quyết mâu thuẫn vật lý: Khi Giáo hoàng nhấc vương miện khỏi nơi đặt và đưa về
phía đầu Carl, mọi người đều đã hiểu rằng Giáo hoàng đồng ý cho Carl làm vua,
việc lên ngôi vua đã chính thức. Nhưng thay vì ngồi yên cho Giáo hoàng đội lên
đầu, mới được nửa đường thì Carl “đón lấy” (dưới mắt của mọi người) và “cướp
lấy” (dưới mắt Giáo hoàng) vương miện và tự đội lên đầu mình. Thông điệp cảnh
cáo của Carl đã được gửi đến Giáo hoàng.
Ví dụ
2: Cũng theo G.S. Altshuller, trong một chương của tiểu thuyết “Mười năm sau”,
A. Dumas kể về việc Portos đặt may bộ quần áo mới với điều kiện không ai được
chạm đến người ông khi lấy số đo. Nhà viết kịch Moliere, khi đó đang ở phòng
khách của tiệm may, đã đưa Portos đến trước gương và lấy số đo từ hình ảnh
Portos trong gương.
Các
mâu thuẫn phát sinh như sau:
- Mâu
thuẫn hành chính, làm sao không chạm vào người Portos mà vẫn có những số đo cần
thiết để may quần áo cho Portos.
- Mâu
thuẫn kỹ thuật
+ Nếu
người được đo là Portos thì các số đo là tin cậy nhưng Portos không cho chạm
vào người mình để đo.
+ Nếu
người được đo không là Portos thì được chạm vào người đó khi lấy số đo nhưng
các giá trị số đo là không tin cậy.
- Mâu
thuẫn vật lý, người được đo phải là Portos (A) để đảm bảo độ tin cậy của các số
đo và không phải là Portos (-A) để người đo có thể chạm vào người đó khi lấy số
đo.
Hình
ảnh Portos trong gương chính là Portos mà lại không phải là Portos, giúp giải
quyết được vấn đề.
1.2-
Mô hình biện chứng về sự phát triển
Mọi
sự vận động và phát triển đều phải có hai mặt mâu thuẫn, đối lập là tính ổn
định (A) và tính thay đổi (-A) cùng tồn tại thống nhất trong một chỉnh thể, đó
là hai mặt mâu thuẫn trong phép biện chứng; ngôn ngữ thường ngày trong xã hội,
người ta gọi là “truyền thống” và “biến đổi”, đó là cách gọi phổ biến; ngôn ngữ
sinh học tương ứng với các phạm trù “di truyền” và “biến dị”.
Xã
hội chỉ có thể phát triển khi có hai mặt đối lập là truyền thống và đổi mới.
Truyền thống là sự kế thừa văn hóa đã có từ trước thể hiện tính ổn định, yếu tố
đổi mới là tính thay đổi để đưa xã hội thích nghi với hoàn cảnh mới. Tính thay
đổi là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Các
loài sinh vật chỉ có thể tiến hóa khi có hai mặt đối lập là di truyền và biến
dị. Di truyền là sự thừa hưởng bộ gen từ thế hệ trước, thể hiện tính ổn định;
biến dị là tính thay đổi, đóng vai trò làm nguyên liệu để cho các loài sinh vật
tiến hóa.
Để
phù hợp với ngôn ngữ lịch sử, ta gọi mặt ổn định là bảo thủ, mặt thay đổi là ly
khai.
Chủ
nghĩa bảo thủ (conservatism) xem xét trạng thái ổn định qua các mặt như di
truyền về sinh học, các giá trị văn hóa truyền thống, sự kế thừa lịch sử, sự ổn
định về tư tưởng và chế độ xã hội...
Chủ
nghĩa ly khai (separatism) xem xét trạng thái thay đổi qua các mặt như biến dị
về sinh học, sự tiếp nhận các giá trị văn hóa từ bên ngoài, sự thay đổi chế độ
qua các thời đại, sự thay đổi các triều đại phong kiến, các trào lưu cải
cách...
Nói
đến phép biện chứng là nói đến sự phát triển. Mô hình biện chứng về sự phát
triển là mô hình biện chứng tổng quát, nó bao hàm cả sự phát triển về tư duy,
khoa học - kỹ thuật, xã hội, kinh tế...
Xã
hội luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng, tuy nhiên không phải mọi sự
biến đổi nào cũng đều tích cực. Rất nhiều vấn đề phát sinh sẽ khiến xã hội mục
ruỗng nếu chúng ta không biết chọn lọc. Chủ nghĩa ly khai xét lại có nhiệm vụ
giải quyết mâu thuẫn biện chứng giữa hai mặt đối lập là chủ nghĩa bảo thủ và
chủ nghĩa ly khai để sàng lọc lại các thành tố thay đổi này và tìm ra sự tiến
bộ để phát huy các giá trị tiến bộ, đồng thời chúng ta phải đấu tranh loại bỏ
những biểu hiện tiêu cực hoặc lệch lạc.
Mâu
thuẫn biện chứng là mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập, vừa có sự đấu tranh vừa có
sự thống nhất với nhau nằm trong cùng một chỉnh thể; chính vì thế ta hoàn toàn
tìm ra được sự thống nhất giữa hai mặt đối lập này để giải quyết thành công mâu
thuẫn.
1.3-
Các ví dụ về mô hình biện chứng về sự phát triển
- Hoà
nhập chứ không hoà tan
Đó là
câu nói biện chứng rất hoàn hảo và rất hiếm mà tôi tìm thấy trong văn chương
người Việt. Không biết người Việt có phát hiện ra sự uyên bác của nó hay không,
hoặc ngay cả người nói câu này cũng chỉ là người có trí tuệ tầm thường nhưng do
"xác suất" và do ông ta nói rất nhiều mà ông ta mới có được câu này.
Đó là
hướng tiếp cận theo hai góc độ đối lập nhau, một bên là chủ nghĩa ly khai (hòa
nhập) và một bên là chủ nghĩa bảo thủ (không hòa tan). Cách giải quyết của nó
là cho phép hai mặt đối lập này cùng tồn tại để chúng cùng tham gia giải quyết
vấn đề: Hoà nhập chứ không hoà tan - chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa bảo thủ
cùng tồn tại thống nhất. Đây gọi là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập cùng tồn
tại thống nhất trong một chỉnh thể.
-
Giao lưu tiếp biến văn hoá
Giao
lưu tiếp biến văn hóa (acculturation) là khái niệm trong ngành nhân học
(anthropology) gồm hai mặt mâu thuẫn là tiếp nhận và cải biến. Nó là quá trình
giải quyết mâu thuẫn theo chủ nghĩa ly khai (tiếp nhận) và chủ nghĩa bảo thủ
(cải biến). Sự dung hòa hai mặt mâu thuẫn theo hai lý thuyết đối lập nhau là
bảo thủ và ly khai để tìm ra thành tố phù hợp, tức là ở đây đã xảy ra cách giải
quyết mâu thuẫn biện chứng.
Tiếp
nhận văn hóa từ xã hội bên ngoài là yêu cầu tất yếu để xã hội chúng ta tiến kịp
với sự phát triển của thời đại. Tuy nhiên chúng ta phải biết chọn lọc theo từng
thành tố, chỉ tiếp thu những thành tố phù hợp với đặc thù tâm lý và xã hội của
riêng mình. Sau đó là quá trình cải tạo các yếu tố từ bên ngoài để hình thành
bản sắc riêng cho dân tộc.
Tuy
nhiên khái niệm này không thể áp dụng để nghiên cứu tôn giáo vì tôn giáo cần sự
ổn định về giáo lý và giáo luật.
-
Thuyết tương đối văn hóa
Thuyết
tương đối văn hóa (cultural relativism) là thuật ngữ được triết gia Alain Locke
đưa ra vào năm 1924, tuy nhiên trước đó, lý thuyết của nó đã được Franz Boas
thiết lập như tiên đề trong nghiên cứu nhân học vào năm 1887. Đó là nguyên tắc
mà người ta cần hiểu văn hóa của con người theo quan điểm riêng của nền văn hóa
đó.
Ta
xét học thuyết này qua hai mặt mâu thuẫn biện chứng.
(1)
Xét theo chủ nghĩa bảo thủ
Đây
là học thuyết khuyến khích sự đa dạng về văn hóa. Theo lý thuyết này thì người
ta không được lấy nền văn hóa của mình làm "trung tâm" để đánh giá
nền văn hóa khác. Nền văn hóa của xã hội nào sẽ giúp cộng đồng đó thích nghi
với các điều kiện môi trường tại đó. Văn hóa truyền thống thể hiện sự ổn định
của cộng đồng theo lịch đại.
(2)
Xét theo chủ nghĩa ly khai
Lý
thuyết này cũng cần được nhìn nhận ở mức độ hợp lý, không thể cực đoan, vì
trong nhiều xã hội kể cả thời hiện đại vẫn tồn tại nhiều hủ tục như các tục
hiến tế con người cho thần linh, các tục ăn thịt người... Để xem xét các tục
này là hủ tục hay mỹ tục, ta phải xét chúng trong mối quan hệ với các yếu tố xã
hội. Các tục nào vi phạm quyền con người thì chúng ta phải loại bỏ.
Ngoài
ra nhiều thành tố văn hóa trước đây có thể phù hợp do con người còn thiếu kiến
thức như các nghi lễ ma thuật chữa bệnh, chữa bệnh bằng bù chú, chữa bệnh bằng
việc cúng tế thần linh nhưng khi chúng ta nhận thức rõ ràng rồi thì các thành
tố này không còn phù hợp nữa... Các trào lưu cải cách văn hóa thường đảm nhiệm
vai trò giải quyết yêu cầu này.
1.4-
Phép biện chứng và chủ nghĩa Darwinism về xã hội
Darwin
phát minh ra thuyết tiến hóa và không may là người ta đã hiểu lầm thuyết này và
ứng dụng vào phép biện chứng để "giải phóng loài người". Bản thân
phép biện chứng và bản thân học thuyết Darwinism là vô tội nhưng nhiều người đã
hiểu nhầm hai lý thuyết này một cách máy móc do nhận thức chưa rõ ràng.
Theo
thuyết này thì cơ chế để cho các sinh vật tiến hóa là đấu tranh sinh tồn. Cá
thể nào mạnh sẽ sống sót, cá thể nào yếu thì bị đào thải. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng của cộng sản đã khiến nhiều người ngộ nhận về sự đấu tranh giai cấp
như sự đấu tranh sinh tồn theo cơ chế tiến hoá. Đó là những gì đã gây ra thảm
họa nhân đạo cho loài người của phong trào cách mạng vô sản. Phép biện chứng
cho phép hai mặt đối lập đấu tranh với nhau, ai thắng thì lãnh đạo, ai thua thì
ở vị trí thấp.
2.
Phép cân bằng động
Tôi
xin gọi phương pháp này là "phép cân bằng động", từ “cân bằng động”
tạm dịch là “balance of motion”. Mục tiêu của nó là để đưa hệ thống xã hội loài
người chuyển động trong trạng thái cân bằng để bảo toàn các thành tố của nó.
Phương pháp này đã được người Chăm sử dụng để cải tổ tôn giáo Bàni nhưng tôi là
người phát hiện ra và trình bày nó.
Phép
cân bằng động dễ gây nhầm lẫn với phép biện chứng. Sau đây là sự so sánh.
-
Phép biện chứng: Tư duy phân tích để tìm ra sự thống nhất giữa hai mặt đối lập,
hai mặt đối lập đấu tranh với nhau, cái cũ phát sinh cái mới, cho phép ta dự
đoán được tương lai.
-
Phép cân bằng động: Tư duy tổng hợp để tạo ra "sự lắp ráp", "sự
kết dính" thông qua việc lồng ghép các bộ phận đã có sẵn tạo thành
"một thực thể gồm hai bộ phận". Phương pháp này tạo ra sự ổn định
giữa hai mặt và tương lai là bất biến.
Phân tích là chia nhỏ, tổng hợp là tập hợp các mảnh nhỏ lại. Tư duy tổng hợp là tìm ra các mối liên hệ làm thống nhất các bộ phận trong hệ thống.
Sự
hình thành chủ nghĩa cộng sản là tư duy phân tích vì nó là một bộ phận trong hệ
thống xã hội loài người, có quan hệ biện chứng với chủ nghĩa tư bản và theo
thuyết vô thần dựa trên những thành tựu khoa học đương đại. Vì đây là tư duy
phân tích theo phép biện chứng nên nó mâu thuẫn với bộ phận còn lại trong xã
hội. Đứng trên quan điểm của chủ nghĩa cộng sản Karl Marx đã có phát ngôn gây
sốc: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa
cộng sản nên ông phải biện hộ cho nó, do đó ông phải theo tư duy phân tích để
phủ nhận tôn giáo. Cũng đứng trên lập trường chủ nghĩa cộng sản, với cơ chế đấu
tranh giai cấp, ông cũng có phát ngôn làm chao đảo các nhà sử học: Lịch sử của
tất cả xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Không
một người am hiểu lịch sử nào thừa nhận quan điểm này của Karl Marx cả, vì lịch
sử loài người không phải chỉ có đấu tranh giai cấp mà quan trọng hơn là lịch sử
đấu tranh giữa các quốc gia, dân tộc, tôn giáo, dòng tộc, phe phái. Rõ ràng tư
duy phân tích của phép biện chứng đã phủ nhận sự tồn tại của các bộ phận khác
trong hệ thống toàn vẹn của nó. Đây là điểm yếu của phép biện chứng.
Tư duy tổng hợp giúp định hướng phân tích và
thống nhất các kết quả phân tích lại với nhau thành một hệ thống hoàn chỉnh.
Theo tư duy tổng hợp, ta không cần phải biết cụ thể từng chi tiết trong bộ phận
xã hội nhưng phải biết tổng quát về các bộ phận xã hội đó, thông qua đó ta mới
ghép đặt các bộ phận này lại với nhau thành một hệ thống.
Về
công dụng, phép biện chứng dùng để tạo ra cái mới, tạo ra các chi tiết để xây
dựng hệ thống; phép cân bằng động dùng để tập hợp và chọn lọc những chi tiết đã
có sẵn rồi lồng ghép, lắp ráp chúng lại tạo thành một hệ thống có cấu trúc gắn
chặt vào nhau. Cả hai phương pháp này đều là tư duy hệ thống.
Với
cơ cấu tôn giáo thể hiện tư duy ở cả hai chiều là phân tích và tổng hợp thì
Chăm có rất nhiều lợi thế.
- Dựa
vào phép biện chứng: Chăm liên hệ và kết nối với thế giới thông qua việc giải
quyết mâu thuẫn biện chứng, sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập.
- Dựa
vào phép cân bằng động: Chăm đã "hội tụ" hệ thống thế giới toàn cầu
dựa trên mối liên kết tôn giáo, mọi thành tố đều bảo toàn trong quá trình
chuyển động ở trạng thái cân bằng. Điều này giúp Chăm làm bạn với các dân tộc,
tôn giáo và các quốc gia.
Với
sự đấu tranh và hội tụ giữa hai nền văn minh là Christianity và Islam, xã hội
Chăm trở thành ĐẦU MỐI GIAO LƯU QUỐC TẾ. Chăm kết nối với thế giới theo phép
biện chứng và hội tụ thế giới qua phép cân bằng động.
3.
Vấn đề tôn giáo
3.1-
Giải quyết mâu thuẫn tôn giáo
3.1.1-
Giải quyết mâu thuẫn tôn giáo theo phép biện chứng
- Sự
hình thành chủ nghĩa cộng sản
Xã
hội loài người được chia cách bởi rất nhiều tôn giáo, làm cách nào để thống
nhất?
Như
vậy để loại bỏ rào cản này thì chủ nghĩa vô thần đã đóng vai trò trung gian
trong việc kết nối các thành viên thuộc các tôn giáo khác nhau. Đó là cách mà
loài người loại bỏ sự khác biệt để xích lại gần nhau.
Chủ
nghĩa duy vật có tính biện chứng và phép biện chứng trở nên duy vật. Học thuyết
này được gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Một
điều phải cân nhắc là chủ nghĩa vô thần đã trở nên cực đoan khi những người
cộng sản thủ tiêu nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp. Thuyết vô thần chỉ phù hợp ở
mức độ tương đối, có thể sử dụng thêm thuyết tương đối văn hóa để bổ sung những
khiếm khuyết của chủ nghĩa vô thần. Ngoài ra trong thời đại toàn cầu hóa này,
chủ nghĩa cộng sản phải chấp nhận nền kinh tế thị trường và tư hữu.
-
Cộng sản có phải là một tôn giáo?
Tôn
giáo là “niềm tin vào các thực thể tinh thần” (E.B. Tylor). Cộng sản theo
thuyết vô thần dựa theo chủ nghĩa duy vật biện chứng. Vì vậy cộng sản không
phải là tôn giáo.
Tuy
nhiên xét theo góc độ về nhận thức thì cộng sản lại có thể được ví như một tôn
giáo.
Đó là
sự lý giải về nguồn gốc của sự sống, về sự tồn tại của vật chất dựa trên những
thành tựu của các lĩnh vực khoa học cụ thể. Điều này có chức năng nhận thức.
Các tôn giáo cũng có chức năng nhận thức, lý giải về sự sống. Dựa trên sự tương
đồng của chức năng này, cộng sản có thể được so sánh với tôn giáo.
Để
giải quyết mâu thuẫn tôn giáo, Chăm lại có cách khác, đó là sự hình thành tôn
giáo Bàni.
3.1.2-
Giải quyết mâu thuẫn tôn giáo theo phép cân bằng động
- Sự
hình thành tôn giáo Bàni
Bàni
là tôn giáo Islam sơ khai, kế thừa tín ngưỡng bản địa, các yếu tố Bà La Môn và
được tổ chức theo mô hình Bà La Môn để hòa giải xung đột tôn giáo trong xã hội
Chăm theo triết lý lưỡng hợp. Đó là cách nhìn sự vật tồn tại theo một cặp phạm
trù, chứ không phải đơn lẻ, triết lý phổ biến mà thuyết cấu trúc của Lévi
Strauss đã đề cặp. Xét về phương pháp luận thì đây là phép cân bằng động.
Đã có
kết luận nhầm lẫn từ các nhà nghiên cứu rằng Bàni (Awal) có quan hệ gắn kết với
Bà La Môn (Ahiér) thông qua phép biện chứng. Tôn giáo không thể gắn kết dựa vào
phép biện chứng vì tôn giáo cần sự ổn định về giáo lý và giáo luật. Phép biện
chứng là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập, cái cũ phát sinh cái mới. Giáo lý
và giáo luật cần sự ổn định chứ không thể biến đổi theo phép biện chứng.
Thậm chí có nhà nghiên
cứu còn cho rằng Awal - Ahiér là quan hệ
âm dương, nữ - nam và là quan hệ giữa hai mặt đối lập trong phép biện chứng.
Cần lưu ý rằng không có quan hệ biện chứng giữa giới tính nam và nữ.
Hai mặt đối lập trong phép biện chứng phải là hai mặt loại trừ nhau. Âm dương chỉ là hai mặt tương phản với nhau, chứ không loại trừ nhau nên âm dương không phải là hai mặt đối lập trong phép biện chứng.
Trước khi tôi trình bày về phép cân bằng động thì vào khoảng thế kỷ 16 - 17, Chăm đã diễn ra quá trình cải tổ tôn giáo Bàni theo phương pháp luận này. Các giáo sĩ Islam tại Champa mặc dù thờ duy nhất Allah, giữ được đức tin đến tận ngày nay nhưng đã được tổ chức theo mô hình tu sĩ của Bà La Môn.
Nếu
sử dụng phép biện chứng để tìm ra sự thống nhất giữa hai tôn giáo thì sẽ phát
sinh mặt thứ ba. Trong trường hợp Bàni, tư duy cải tổ tôn giáo chỉ dựa vào
phương pháp “lồng ghép” nên không xuất hiện mặt thứ ba.
- Âm
mưu lũng đoạn tôn giáo Bàni
Bàni
là trung gian kết nối giữa Islam và Bà La Môn. Người Bàni có thể chung sống dễ
dàng với Islam và Bà La Môn. Dựa vào đặc điểm này, người Bàni có rất nhiều lợi
thế để làm bạn với các cộng đồng tôn giáo này.
Bàni
phải duy trì mối quan hệ với cả Islam và Bà La Môn. Người Bàni không được nghe
theo quan điểm một chiều để thiên vị bất kì tôn giáo nào.
Tuy
nhiên Bàni vẫn phải giữ lập trường là một tôn giáo độc lập. Bất kì âm mưu sáp
nhập Bàni vào Islam hay âm mưu sáp nhập Bàni vào Bà La Môn đều sẽ vấp phải sự
kháng cự từ người Bàni.
Tình
hình thực tế cho thấy ý đồ thâu tóm Bàni không phải chỉ có ở thành phần người
Islam cực đoan mà ý đồ này cũng xuất hiện ở một bộ phận người Bà La Môn thiển
cận. Không chỉ có vậy, nhiều nhân vật còn xuyên tạc Bàni theo ý đồ tôn giáo của
họ.
Người
Bàni có thể mượn thế lực của người Bà La Môn để phản kháng lại âm mưu sáp nhập
Bàni vào Islam và người Bàni cũng có thể mượn thế lực của người Islam để phản
kháng lại âm mưu sáp nhập Bàni vào Bà La Môn.
Bàni
phải đấu tranh với các thế lực lũng đoạn tôn giáo. Các vấn đề của Bàni nên để
cho người Bàni giải quyết. Người ngoại đạo không được quyền lũng đoạn tôn giáo
Bàni.
3.2-
Tôn giáo trong mối quan hệ với chính trị
Trên
thế giới có tới 10.000 tôn giáo nhưng về cơ bản chúng chỉ chịu sự chi phối của
ba nền văn minh là Christianity (Phương Tây), cộng sản (Nga, Trung Quốc) và
Islam (Trung Đông).
Về
nền văn minh cộng sản, mâu thuẫn giữa hai nước lãnh đạo cộng sản là Nga và
Trung Quốc vẫn kéo dài đến bây giờ vì Nga là quốc gia kế tục Liên Xô. Xét về ý
thức hệ "tôn giáo", Nga và Trung Quốc cùng chung một ý thức hệ là
cộng sản, đều theo thuyết vô thần. Tuy nhiên xét về quyền lợi quốc gia thì Nga
và Trung Quốc mâu thuẫn với nhau. Có thể nói Nga và Trung Quốc là hai thế lực
đối đầu với nhau về quyền lợi quốc gia để cạnh tranh nhưng họ đều cùng chung ý
thức cộng sản.
Mối
quan hệ tôn giáo với chính trị thể hiện rõ ở hai thời kỳ.
-
Thời kỳ cộng sản trỗi dậy
Cách
mạng vô sản Nga diễn ra năm 1917 tạo ra một trào lưu đối lập với phương Tây.
Các quốc gia Islam bị phương Tây đô hộ đã nảy sinh ý tưởng liên minh với nước
Nga để chống lại phương Tây nhưng liên minh này nhanh chóng tan rã do mâu thuẫn
tư tưởng Islam và chủ nghĩa cộng sản. Xét về quyền lợi quốc gia, dân tộc thì họ
cùng chung một đối tượng thù địch là phương Tây nhưng về tôn giáo thì Islam mâu
thuẫn với chủ nghĩa vô thần và tư tưởng cực tả của cộng sản.
Khi
chủ nghĩa cộng sản trỗi dậy thì tất cả các tôn giáo trên thế giới bị phản biện
và công kích, thậm chí là bị phỉ báng và giải thể. Tình trạng này khiến các tôn
giáo đã đoàn kết lại để chống chủ nghĩa vô thần.
Như
ta đã biết sau thế chiến II trật tự hai cực được hình thành do Nga và Mỹ lãnh
đạo. Vì Nga theo cộng sản nên tất cả các tôn giáo đã phải nương tựa vào Phương
Tây do Mỹ lãnh đạo. Nếu ta chấp nhận cộng sản tồn tại như mô hình một tôn giáo
thì Nga chỉ chi phối duy nhất một tôn giáo là cộng sản, trong khi tất cả các
tôn giáo khác bao gồm cả Islam, Bà La Môn, Phật giáo... đều do Phương Tây chi
phối.
Cũng
vì điều này, Mỹ đã hỗ trợ các nước Islam ở Trung Đông trong cuộc chiến chống
lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản.
-
Thời kỳ Islam trỗi dậy
Khi
Islam phục hưng trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, nhiều quốc gia ở Trung
Đông trở thành đối thủ chính trị đối với Phương Tây. Thành phần truyền giáo
Islam đã lấn áp các tôn giáo khác để thu hút tín đồ từ các tôn giáo khác nhằm
mở rộng phạm vi ảnh hưởng khiến nhiều tôn giáo có nguy cơ bị xóa sổ. Trong tình
hình này thì Phương Tây đã tìm cách hỗ trợ các tôn giáo bị Islam lấn áp.
Vì
vậy một lần nữa Phương Tây có công trong việc giữ gìn sự đa dạng về tôn giáo
trên thế giới.
4.
Lịch sử của phong trào thống nhất loài người
Karl
Marx (1818 - 1883) với học thuyết cộng sản đã thể hiện tham vọng thống nhất loài
người thông qua mô hình biện chứng về quan hệ sản xuất là chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa cộng sản, kèm theo nó là thuyết vô thần. Mô hình này đã trang bị cho
phe Đồng minh thống nhất loài người và thống trị toàn cầu trong thời chiến
tranh lạnh.
Tuy
nhiên mô hình biện chứng về quan hệ sản xuất đã bộc lộ điểm yếu của nó. Phép
biện chứng nói chung chỉ cho phép tư duy phân tích, không có khả năng tổng hợp.
Phép biện chứng chỉ giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh chứ không có sự kết
dính; với tư duy này thì nền hòa bình chỉ được giải quyết bằng các cuộc chiến
tranh.
Để
thống nhất các quốc gia ta sử dụng phép biện chứng. Để thống nhất các tôn giáo
ta phải kết hợp cả hai phương pháp luận là phép biện chứng và phép cân bằng
động.
III.
TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỂ HÒA GIẢI DÂN TỘC CHĂM
1-
Thực trạng nội bộ Chăm
Sau
khi Fulro tan rã nhiều khuynh hướng chính trị đã diễn ra, trong đó có rất nhiều
khuynh hướng ly khai và đối lập.
Họ
không thành lập các đảng phái chính trị nhưng họ lại thành lập nhiều phe nhóm
có sự ràng buộc về quyền lợi giữa các thành viên và quyền lợi phe nhóm luôn
luôn hiện diện bên cạnh lý tưởng đấu tranh mà tất cả các phe nhóm thường đề cao
lý tưởng của mình là đấu tranh cho cộng đồng dân tộc.
Các
phe nhóm Chăm luôn phải đấu tranh với nhau để tranh giành ảnh hưởng trong cộng
đồng Chăm và tranh giành sự ủng hộ hoặc sự nhượng bộ của chính quyền Việt Nam.
(1) -
Tranh giành ảnh hưởng trong cộng đồng Chăm
Các
phe nhóm luôn phải tuyên truyền lý tưởng của mình ở nhiều dạng thức khác nhau,
kể cả việc quảng bá hư danh và lý tưởng đấu tranh hão huyền. Họ sẵn sàng công
kích, lên án lẫn nhau. Lâu lâu các phe nhóm lại tung lý tưởng đấu tranh phục
quốc ở dạng bí mật để chiêu dụ những nhân vật giàu lý tưởng nhưng thiếu lý trí,
tuy nhiên hành động này họ phải thực hiện bí mật vì nếu bại lộ thì phe nhóm của
họ sẽ bị công an dập tan.
(2) -
Tranh giành sự ủng hộ hoặc sự nhượng bộ của chính quyền Việt Nam
Các
phe nhóm chính trị này sẵn sàng cung cấp thông tin bất lợi về phe đối lập cho
công an để "lập công" và để làm suy yếu phe đối lập. Thậm tệ hơn họ
còn cung cấp thông tin sai sự thật và tô hồng lý tưởng đấu tranh của phe đối
lập như "âm mưu phục quốc" cho công an để công an chĩa mũi nhọn vào
phe đối lập bất chấp sự nguy hiểm của các cá nhân thuộc phe đối lập.
2-
Phép biện chứng để thống nhất Chăm
Xã
hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn và vận động không ngừng, từ vĩ mô trong phạm vi
toàn cầu cho đến phạm vi hẹp hơn là mỗi dân tộc, luôn luôn nảy sinh mâu thuẫn;
chính vì thế điều quan trọng là ta giải quyết mâu thuẫn như thế nào.
Đường
lối đấu tranh của dân tộc Chăm thời kỳ hậu Fulro dù có nhiều tiếng nói đa chiều
nhưng có thể quy về hai mặt đối lập cơ bản theo mô hình biện chứng về sự phát
triển, đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập là chủ nghĩa bảo thủ (A) và chủ
nghĩa ly khai (-A) cùng tồn tại thống nhất trong một chỉnh thể là dân tộc. Về
sự thống nhất giữa hai mặt đối lập này ta áp dụng phép biện chứng để giải quyết
mâu thuẫn.
Champaka
là cơ quan kế tục về truyền thống đấu tranh của dân tộc nên đảm bảo vai trò
lãnh đạo về đường lối bảo thủ. Các hội nhóm khác đều phủ định Champaka nên
chúng đều là thành phần ly khai. Ly khai là sự đấu tranh với tư tưởng truyền
thống, sự đấu tranh với tư tưởng cũ để tìm ra hướng đi mới mà đường lối bảo thủ
không đảm nhiệm được. Vấn đề đặt ra là các hội nhóm ly khai cần nhìn nhận lại
vai trò của mình, vì trên thực tế các hội nhóm này chỉ tách ra khỏi đường lối
bảo thủ theo bản năng yêu ghét hoặc chỉ vì quyền lợi riêng hoặc để tránh “sự
nhòm ngó” từ cộng sản mà thôi. Sự thật là họ tách ra và hoạt động độc lập mà
không có một nền tảng lý luận nào. Chính vì điều này đã khiến xã hội Chăm trở
nên xáo trộn trong một thời gian dài; chỉ vì akhar thrah, người ta đã chứng
kiến xã hội Chăm trở nên hỗn loạn.
Một
điều dễ thấy là chủ nghĩa ly khai diễn ra không đồng nhất, không có một nền tư
tưởng nhất quán nào để trang bị cho các hội nhóm ly khai; tùy theo quyền lợi
riêng mà các cá nhân tụ tập lại theo tư tưởng gắn liền với lợi ích của họ. Giữa
các hội nhóm ly khai cũng đấu đá lẫn nhau nhưng có một điểm chung là chúng đều
xem tư tưởng bảo thủ, Champaka là đối lập.
IV.
TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỂ GIỮ GÌN HÒA BÌNH VÀ PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI
1.
Dân chủ có phải là mục tiêu của thế giới?
Câu
trả lời là không. Dân chủ chỉ là cái vỏ của tự do mà ngay cả tự do cũng không
phải là mục tiêu của thế giới.
Mục
tiêu của thế giới là hoà bình và phát triển mà nền tảng của hoà bình là sự
thống nhất. Sự nghiệp thống nhất thế giới chính là con đường đạt tới mục tiêu
sau cùng của nhân loại.
Phương
Tây đề cao tự do, dân chủ nhưng đó chỉ là lý thuyết nông cạn. Dân chủ không
giải quyết được mâu thuẫn về quốc gia, dân tộc, tôn giáo. Dân chủ chỉ giải
quyết được vấn đề giàu nghèo.
Dân
chủ được định nghĩa là mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc bầu cử đại
diện chính trị.
Giả
sử lý thuyết này được áp dụng cho thế giới, mọi người đều có quyền bầu cử cho
một chính phủ là đại diện cho họ thì điều này cũng đồng nghĩa với việc dân tộc
nào đông dân nhất thì sẽ là dân tộc thống trị và tôn giáo nào đông dân nhất sẽ
là tôn giáo thống trị. Điều này sẽ dẫn đến hiện tượng bùng nổ dân số.
Dân
số là yếu tố quyết định cho nền dân chủ nhưng dân số quá đông chỉ làm cạn kiệt
tài nguyên môi trường. Rõ ràng dân chủ không giải quyết được vấn đề dân tộc,
tôn giáo.
Nền
dân chủ của phương Tây cần được xét lại. Họ đã tự đề cao nền dân chủ quá đáng
trong khi đa phần họ không hiểu sự hạn chế của nền dân chủ.
2-
Thế giới đang cần một nền tảng lý luận mới
Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, với sự thắng lợi của phe Đồng minh thì các quốc
gia của phe Đồng minh đã thống nhất loài người và thống trị thế giới thông qua
mô hình biện chứng về quan hệ sản xuất do Karl Marx đề xướng là quan hệ biện
chứng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Mỹ lãnh đạo chủ nghĩa tư
bản, Nga lãnh đạo chủ nghĩa cộng sản.
Tuy
nhiên với sự cạnh tranh của Đức, Italia, Trung Quốc... thì mô hình thống trị
của phe Đồng minh đã không còn là mô hình thống trị toàn cầu.
Tư
duy biện chứng dựa vào quan hệ sản xuất của nền kinh tế không giải quyết được
nhiệm vụ của thời đại. Xã hội loài người không phải chỉ có mâu thuẫn giai cấp
mà quan trọng hơn là mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo. Phép biện chứng cần được
xây dựng lại để đáp ứng yêu cầu này. Theo tư duy biện chứng của công trình này
thì xã hội loài người gồm hai mặt đối lập là chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa ly
khai, đây là mô hình biện chứng về sự phát triển đã trình bày ở phần trên.
Theo
phong trào mà Karl Marx đề xướng, chỉnh thể chỉ là phe Đồng minh. Sự đấu tranh
giữa hai mặt đối lập là chủ nghĩa tư bản (A) và chủ nghĩa cộng sản (-A) cùng
tồn tại thống nhất trong một chỉnh thể là phe Đồng minh vì mô hình thống trị
này do phe Đồng minh lãnh đạo.
Theo
tư duy biện chứng của Sri Samri, chỉnh thể là sự tồn tại toàn vẹn của xã hội
loài người. Sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập là chủ nghĩa bảo thủ (A) và chủ
nghĩa ly khai (-A) cùng tồn tại thống nhất trong một chỉnh thể là toàn cầu vì
mô hình biện chứng này tạo điều kiện cho tất cả các cường quốc cùng tham gia
lãnh đạo. Thế giới được nhìn nhận là một chỉnh thể thống nhất.
Thế
giới đang cần được trang bị một nền tảng lý luận mới đảm bảo về tư duy hệ
thống, cho phép các thành tố mâu thuẫn và đối lập cùng tồn tại chung trong hệ
thống toàn vẹn của thế giới. Phép biện chứng và phép cân bằng động sẽ đáp ứng
yêu cầu trang bị một nền tảng lý luận mới cho loài người.
3-
Đường lối đấu tranh của các quốc gia
- Về
chủ nghĩa bảo thủ
Các
nước thuộc phe Đồng minh trong thế chiến II là các quốc gia có diện tích lãnh
thổ lớn, tài nguyên nhiều và quá khứ hào hùng nên các quốc gia này đảm bảo vai
trò lãnh đạo về đường lối bảo thủ. Các nước Đồng minh bao gồm Nga, Pháp và các
quốc gia của người Anh.
Chủ
nghĩa bảo thủ có lợi cho phe Đồng minh vì nó bảo tồn trạng thái hiện tại, trở
lại các giá trị trong quá khứ hoặc cải tạo xã hội một cách từ từ để duy trì
quyền lực và lãnh thổ.
Nước
Pháp trước thế chiến II là một trong những đế quốc có lãnh thổ lớn nhất. Tuy
nhiên do các thuộc địa của Pháp lần lượt giành độc lập nên lãnh thổ mà người
Pháp cai quản ngày nay không còn nhiều. Vì vậy phe Đồng minh chỉ còn hai dân
tộc nắm quyền thống lĩnh thế giới cho đến ngày nay là người Anh và người Nga.
- Về
chủ nghĩa ly khai
Các
nước thuộc phe Phát-xít (Fascism) trong thế chiến II bao gồm Đức và Italia, gần
đây là sự trỗi dậy của Trung Quốc, đặc điểm là diện tích lãnh thổ ít và tài
nguyên ít. Các quốc gia này đảm nhiệm vai trò lãnh đạo về đường lối ly khai. Ly
khai là sự đấu tranh với tư tưởng bảo thủ để tìm ra hướng đi mới mà chủ nghĩa
bảo thủ không đảm nhiệm được. Vấn đề đặt ra là các quốc gia theo đường lối ly
khai cần phải sát cánh với các quốc gia theo đường lối bảo thủ để cùng tham gia
giải quyết các vấn đề trong toàn cầu.
Mô
hình biện chứng về sự phát triển giữa chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa ly khai là
cách tiếp cận theo lịch đại, có đặc điểm là không đồng nhất. Các mục tiêu cho
mỗi nước là không giống nhau do đặc thù lịch sử riêng. Tùy theo lợi ích của mỗi
quốc gia, đường lối chính trị sẽ diễn ra theo các xu hướng khác nhau; tuy nhiên
các quốc gia theo chủ nghĩa ly khai là đối lập với phe Đồng minh. Bản thân chủ
nghĩa bảo thủ của phe Đồng minh đã có một mô hình biện chứng nhỏ hơn là mô hình
biện chứng về quan hệ sản xuất đã trình bày ở trên.
Các
quốc gia lãnh đạo chủ nghĩa ly khai bao gồm Đức, Italia, Trung Quốc... đóng vai
trò cạnh tranh và gây sức ép cho các quốc gia theo đường lối bảo thủ thực hiện
đúng chức năng của mình. Phe Đồng minh là những quốc gia có lãnh thổ rộng lớn
và tài nguyên nhiều nên phải có nghĩa vụ trong toàn cầu.
VI.
VẤN ĐỀ THỜI SỰ
1.
Brexit thể hiện sự liên minh của phe Đồng minh
Brexit
(Britian exit) là từ chỉ sự rời khỏi EU của nước Anh.
Phe
Đồng minh ở đây chỉ có các quốc gia của người Anh và người Nga, không có Pháp.
Phe Đồng minh là sự liên minh giữa các dân tộc sở hữu lãnh thổ rộng lớn, trước
đây có Pháp nhưng do các thuộc địa của Pháp lần lượt giành độc lập nên lãnh thổ
của người Pháp ngày nay không còn nhiều, vì vậy phe Đồng minh hiện nay thực
chất là sự liên minh giữa hai dân tộc là người Anh và người Nga.
Người
Anh và người Nga là hai dân tộc thống trị thế giới với trật tự hai cực theo mô
hình biện chứng về quan hệ sản xuất giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản
sau chiến tranh thế giới thứ hai. Khi Liên Xô sụp đổ, lúc này người Anh đã đánh
bại người Nga để độc quyền thống trị thế giới đến ngày nay.
Mặc
dù mâu thuẫn với nhau, Mỹ và Nga vẫn có sự hỗ trợ nhau vì mâu thuẫn giữa họ
thực ra là mâu thuẫn biện chứng, đó là mâu thuẫn vừa có sự đấu tranh (-A) vừa
có sự thống nhất (A) với nhau. Theo mô hình biện chứng mà Karl Marx đề xướng,
hai mặt đối lập là chủ nghĩa tư bản do Mỹ lãnh đạo và chủ nghĩa cộng sản do Nga
lãnh đạo có thuộc tính bài trừ, phủ định nhau nhưng cả hai mặt đối lập này đều
đồng thời tồn tại và không thể tách rời. Đó là bản chất trong mối quan hệ giữa
nước Mỹ và nước Nga.
Diễn
giải một cách dễ hiểu là người Anh và người Nga đều là các dân tộc sở hữu lãnh
thổ rộng lớn nhất nhì thế giới nên họ cần tương trợ nhau để bảo vệ lãnh thổ.
Sau
một thời gian đấu tranh với người Nga khiến người Nga suy yếu, người Anh đã tìm
cách hỗ trợ người Nga, đặc biệt là sau đóng góp của người Nga trong cuộc chiến
chống IS.
Mặt
khác, sự trỗi dậy của Đức và Trung Quốc càng khiến người Nga đánh mất vị trí
của mình, người Nga không còn là đối thủ cạnh tranh với người Anh.
Trong
khi đó EU được thiết lập với mục đích chính trị là để đối kháng với nước Nga.
Rõ ràng EU không còn quan trọng và không còn phù hợp với người Anh.
2. Đối ngoại của Mỹ dưới thời Donald Trump
Lực lượng Tin Lành của các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên và người Chăm ở miền Trung phải thất vọng vì sự quay lưng của nước Mỹ. Tại sao tôi có nhận định này?
Nước Mỹ đang có nguy cơ đánh mất vị thế siêu cường của mình do khoảng cách về sự phát triển của nền kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới đang ngày càng rút ngắn. Xu hướng của thời đại là khả năng tiếp cận các nguồn lực kinh tế là tương đương nhau. Lẽ ra đây phải được xem là dấu hiệu tích cực, thế nhưng do Mỹ có truyền thống giữ vị trí số một trên thế giới lâu dài nên chính quyền Donald Trump lo ngại Trung Quốc sẽ vượt mình, thế là họ bỏ qua mối thù chiến tranh ở Việt Nam để yểm trợ cho Việt Nam chống lại Trung Quốc.
Người Mỹ đừng quên rằng Việt Nam là đồng minh của Nga, chứ không phải là đồng minh của Mỹ. Giả sử Việt Nam mạnh lên thì chủ quyền của các quốc gia trong khu vực như Cambodia, Lào... cũng sẽ bị đe doạ nhưng bất lợi cho Mỹ hơn cả là lực lượng của Nga cũng sẽ lớn mạnh.
Trung Quốc đóng vai trò rất quan trọng trong việc phân tán lực lượng cộng sản thân Nga để hỗ trợ phương Tây. Kể từ khi Mỹ và châu Âu bắt tay với Trung Quốc, nước Nga đã không còn ở vị trí siêu cường như trước.
Tuy nhiên vấn đề mà ông Donald Trump quan tâm là vị trí của Mỹ bị đe doạ.
Châu Âu được thành lập với mục đích chính trị là để tập hợp lực lượng nhằm đối kháng với nước Nga. Ngay khi Donald Trump ứng cử, người Đức đã phản ứng dữ dội vì ông này có chiến lược thân Nga. Kể từ khi cách mạng tháng Mười ở Nga bùng nổ, châu Âu luôn đứng trước nguy cơ bị xâu xé bởi nội chiến quốc - cộng.
Chúng ta phải thuyết phục châu Âu và Trung Quốc liên minh với nhau vì họ cùng một mối đe dọa từ Nga.
Trở lại với vấn đề quan hệ đồng minh, Mỹ và Pháp là đồng minh truyền thống của Chăm và các dân tộc Tây Nguyên. Nay Mỹ đang có vấn đề với Trung Quốc. Hiện nay chúng ta chỉ có thể trông chờ ở Trung Quốc và châu Âu.
3. Chăm
nên có mối quan hệ gì với nước Nga?
Hiện
nay, Nga là đồng minh duy nhất của Việt Nam trong khi đó đối tượng đấu tranh
của Chăm là chính quyền Việt Nam. Điều này sẽ ảnh hưởng gián tiếp đến mối quan
hệ giữa Chăm với Nga.
Nga
là một trong những cường quốc hàng đầu trên thế giới. Nguyên tắc để xây dựng
mối quan hệ là chúng ta càng có nhiều bạn càng tốt, trong trường hợp không thể
làm bạn với họ thì chúng ta phải tìm cách làm cho họ trung lập, nghĩa là không phải
bạn cũng không phải thù.
Chăm
có một lực lượng đông đảo là người Islam. Hiện nay, các quốc gia Islam có mối
quan hệ rất tốt với Nga trong đó có Malaysia. Chúng ta có thể khai thác mối
quan hệ này để nước Nga không trở thành kẻ thù trực tiếp với Chăm.
Chúng
ta phải tìm cách làm cho Nga trung lập để họ không yểm trợ cho Việt Nam chống
lại Chăm.
Tuy
nhiên nguyên tắc của chúng ta trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng cho dân
tộc là đấu tranh. Chúng ta phải đấu tranh với Việt Nam, và chúng ta phải đấu
tranh gây sức ép với Nga để Nga không yểm trợ cho Việt Nam chống lại chúng ta.
Động
lực đấu tranh của chúng ta là quyền lợi chính đáng của dân tộc, không phải thù
hằn, vì vậy chúng ta cũng không nên thù hằn với dân chúng người Việt, tất nhiên
là chúng ta càng không thù Nga.
TỔNG
KẾT
NGỌN
CỜ MỚI CHO PHONG TRÀO THỐNG NHẤT LOÀI NGƯỜI
I.
Người khởi xướng: Karl Marx
1.
Thống nhất các quốc gia: Mô hình biện chứng về quan hệ sản xuất giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa cộng sản.
Lực
lượng lãnh đạo: Phe Đồng minh
-
Lãnh đạo chủ nghĩa tư bản: Mỹ
-
Lãnh đạo chủ nghĩa cộng sản: Nga
2.
Thống nhất các tôn giáo: Thuyết vô thần.
II.
Người hoàn thiện: Sri Samri
1.
Thống nhất các quốc gia: Mô hình biện chứng về sự phát triển giữa chủ nghĩa bảo
thủ và chủ nghĩa ly khai. Bản thân chủ nghĩa bảo thủ đã có một mô hình biện
chứng nhỏ hơn là mô hình biện chứng về quan hệ sản xuất giữa chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa cộng sản.
Lực
lượng lãnh đạo: Tất cả các cường quốc.
-
Lãnh đạo chủ nghĩa bảo thủ: Mỹ lãnh đạo chủ nghĩa tư bản, Nga lãnh đạo chủ
nghĩa cộng sản.
-
Lãnh đạo chủ nghĩa ly khai: Đức, Italia, Trung Quốc...
2.
Thống nhất các tôn giáo: Thuyết vô thần và phương pháp luận triết học mới nhất
là phép cân bằng động.
Tài
liệu tham khảo
-
Phan Dũng (2010). Tư duy logic, biện chứng và hệ thống. NXB Nhà Xuất Bản Trẻ.
Nhận xét
Đăng nhận xét