SỰ BIẾN ĐỔI TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI STIÊNG
SỰ BIẾN ĐỔI TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG
NGƯỜI STIÊNG
Kiều Dung, 2013
[Tín ngưỡng bản địa Chăm cũng
tương tự tín ngưỡng của các dân tộc bản địa Đông Dương. Stiêng là một trong
những dân tộc bản địa ở Đông Dương. Để hiểu tín ngưỡng bản địa Chăm, chúng ta
có thể tham khảo bài nghiên cứu về người Stiêng.]
Bản báo cáo này trình bày kết
quả mà tôi đã nghiên cứu được tại chuyến điền dã ở xã Lộc An, huyện Lộc Ninh,
tỉnh Bình Phước về người Stiêng theo chương trình thực tập của khoa nhân học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh từ ngày 20 đến ngày 28 tháng 6 năm 2013.
I. TỔNG QUAN
Người Stiêng là một tộc người
theo ngữ hệ Môn - Khmer cư trú ở Tây Nguyên và một số vùng lân cận Tây Nguyên,
trong đó có xã Lộc An, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.
Ngày 20 tháng 6, các cán bộ lãnh
đạo xã Lộc An, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, đại diện là ông Điểu Sơn, phó
chủ tịch xã Lộc An, đã báo cáo tình hình về mọi mặt trong đời sống của người
dân tại xã Lộc An.
Toàn xã Lộc An có 7400 nhân
khẩu, ngoài người Kinh ra, xã gồm có hai dân tộc khác là Stiêng và Thái, trong
đó người Stiêng là đông nhất. Người Thái chỉ sống duy nhất ở ấp 8, sống riêng
biệt với người Stiêng theo dự án kinh tế mới. Người Stiêng cư trú ở 7 ấp trong
xã Lộc An. Mỗi ấp người Stiêng đều có một nhà sàn riêng, tổng cộng xã có 7 nhà
sàn tương ứng với 7 ấp. An ninh tương đối tốt.
Khí hậu có hai mùa: mùa nắng và
mùa mưa. Đường xá đi lại khó khăn. Theo chương trình 135, nhà nước có làm đường
nông thôn nhưng chủ yếu là đường sỏi. Nhân dân bỏ công, tự khắc phục các đường
ven nhà mình, thực hiện theo chương trình xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên xã
Lộc An phấn đấu trở thành nông thôn mới khó. Kinh tế nông nghiệp là trồng cây
công nghiệp, cây cao su, điều, tiêu. Toàn xã có 100 trang trại cao su trồng đa
canh, gồm 2 thành phần là cao su lâm trường và cao su nhà nước. Tuy nhiên, chủ
đồn điền cao su là người Stiêng thì chiếm tỉ lệ thấp. Nông dân làm cao su chiếm
tỉ lệ nhỏ. Người dân đa số trồng lúa rẫy, phụ thuộc tình hình thời tiết. Xã Lộc
An có khuynh hướng chuyển từ làm lúa rẫy sang làm lúa nước từ năm 2006. Toàn xã
có 8% là hộ nghèo, đa số là người Stiêng. Đa số các hộ nghèo là do thiếu đất
canh tác (dưới 5 sào), dân trí thấp, nhận thức phong tục tập quán thấp. Tỉ lệ
người mù chữ là 10-15%, đa số là người Stiêng. Rừng ở xã Lộc An không còn, khu
vực này giao cho bộ quốc phòng quản lý. Các binh đoàn 15, 16, 17 được triển
khai dọc Tây Nguyên. Các khu rừng xung quanh còn lại đều nghèo kiệt do người
dân chặt lấy hết cây to để trồng cao su.
II. VAI TRÒ CỦA GIÀ LÀNG
Già làng là người đàn ông lớn
tuổi, từ 60 tuổi trở lên, giàu kinh nghiệm, có uy tín, được đồng bào tín nhiệm
và thực hiện theo lời chỉ dẫn của mình. Già làng là thầy cúng có uy tín nhất,
đóng vai trò là thủ lĩnh trong làng.
Trước đây, già làng được xem là
người có uy tín nhất trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Ngày nay, tiếng
nói của già làng giảm đi nhưng già làng vẫn là người có tiếng nói trọng lượng
đối với việc hỗ trợ ban điều hành, hỗ trợ ngôn ngữ để tuyên truyền với người
Stiêng, giữ gìn phong tục và giải quyết một số xích mích trong nội bộ cộng đồng
Stiêng. Theo Điểu Sơn, toàn xã Lộc An có 5 già làng nằm trong Hội đồng Già
làng. Hội đồng Già làng bao gồm cả già làng và những người Stiêng có uy tín
khác, nằm trong Hội người Cao tuổi, hội này bao gồm cả người Kinh. Già làng
được chọn ra dựa trên các tiêu chí: 1- tuổi từ 60 trở lên; 2-tích cực tham gia
hoạt động xã hội; 3- có uy tín, được dân lắng nghe, không nằm trong hộ nghèo.
Theo Điểu Rem ở ấp 54, già làng
có vai trò cúng lễ, duy trì phong tục, nắm về các tục cúng bái. Già làng là
người lớn tuổi nên nắm rất rõ các tập tục của đồng bào mình. Các nghi thức cúng
bái cần phải được duy trì dưới hình thức truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ
khác vì người Stiêng chưa có chữ viết phổ thông riêng. Các nghi thức về các
cách thực hành cúng bái, tập tục của đồng bào chỉ duy trì bằng hình thức truyền
miệng nên rất dễ bị chôn vùi nếu cộng đồng thiếu những người truyền dạy, trong
số những người đó thì già làng là người đóng vai trò chính. Ngày nay, xã hội
diễn ra xu hướng hội nhập, người Stiêng cũng hội nhập theo xu hướng này. Trong
quá trình này giới trẻ đã phải tiếp nhận rất nhiều luồng văn hóa để thích ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội. Nhiều người trong số họ đã bỏ lại các phong
tục tốt đẹp của mình. Trong hoàn cảnh này, già làng chính là người rõ nhất về
phong tục của cộng đồng mình vì các cụ đã chứng kiến, tham gia cúng bái nhiều
nghi lễ.
Trong đám cưới, mỗi bên trai gái
sẽ tìm cho mình một già làng hoặc người có uy tín khác để đại diện cho mình.
Già làng đóng vai trò mai mối trong lúc này và đặc biệt trong việc cúng lễ của
đám cưới đều phải có già làng thực hiện. Người có uy tín thì có thể thay thế
cho già làng nhưng già làng vẫn là đối tượng được ưu tiên lựa chọn hàng đầu.
Già làng đã đóng vai trò gắn kết hôn nhân trong cộng đồng người Stiêng.
Cũng theo ông Điểu Rem, việc
đánh cồng chiêng cũng cần phải có người thông thạo truyền dạy để đánh những
nhạc điệu âm vang, những âm điệu hay thì già làng là một trong số người biết
rất thông thạo. Muốn đánh cồng chiêng thì cũng cần phải có động tác thích hợp,
đánh cho phát ra tiếng kêu thì ai cũng đánh được nhưng đánh cồng chiêng để tạo
ra âm vang cho các lễ hội, các hội diễn văn nghệ thì đòi hỏi người đánh cồng
chiêng cũng cần phải có một số hiểu biết nhất định về tiết tấu, âm điệu của
cồng chiêng.
Già làng cũng tham gia giải
quyết một số xích mích theo yêu cầu của một số gia đình và theo yêu cầu của
trưởng ấp. Các gia đình xảy ra mâu thuẫn thì đến mời già làng hoặc trưởng ấp
mời già làng đến giải quyết hộ. Bà Thị Hương ở ấp 1 cho biết già làng giải
quyết xích mích, gây gỗ trong ấp, khuyên hai bên hòa thuận, sống vui vẻ, nhà
cửa yên ổn. Nếu hai vợ chồng cãi nhau, muốn bỏ nhau thì già làng khuyên họ sống
hòa thuận, hai vợ chồng nhường nhịn nhau, vợ tôn trọng chồng, chồng tôn trọng
vợ, vợ chồng bình đẳng. Các gia đình sẽ nghe theo sự giải quyết của già làng,
nếu không nghe thì họ đưa ra pháp luật giải quyết. Già làng không giải quyết
các trường hợp đánh nhau, gây thương tích nặng, không giải quyết nạn trộm cắp.
Cũng theo bà Thị Hương, không có
trường hợp nào mà trí thức giải quyết mâu thuẫn thay thế già làng. Trí thức có
trình độ đại học thường là những người trẻ tuổi nên không thể giải quyết mâu
thuẫn giữa các gia đình trong ấp; bằng tuổi nhau thì người ta nói "mày
cũng như tao, tao cũng như mày". Vì thế trí thức không thể thay thế được
vai trò của già làng. Bà Thị Hương cũng có một đứa em ruột tốt nghiệp đại học
nhưng không hề thực hiện được các công việc của già làng.
Trong việc quản lý hành chính,
an ninh, trưởng ấp là người đảm nhiệm nhưng về phía đồng bào Stiêng thì già
làng có tiếng nói trọng lượng hơn, theo Điểu Rem. Theo Điểu Sơn ở ấp 1, phó chủ
tịch xã Lộc An cho biết già làng hỗ trợ chính trong việc tranh chấp. Các già
làng không theo đạo Tin Lành. Tiếng nói của già làng có trọng lượng trong việc
hòa giải. Tuy nhiên không có già làng nào làm trưởng ấp vì tuổi cao. Trưởng ấp
7, Nguyễn Thanh Thơm cho biết già làng hỗ trợ ban điều hành, hỗ trợ ngôn ngữ để
giao tiếp với người Stiêng. Nhiều người Stiêng cao tuổi thường không biết tiếng
Việt, vậy già làng sẽ sử dụng tiếng mẹ đẻ để tuyên truyền chủ trương, chính
sách đến người Stiêng.
Nhìn chung trưởng ấp chỉ là
người đóng vai trò giữ gìn trật tự, nắm quyền lực thực hiện theo pháp lệnh.
Trong khi đó, già làng lại là người đóng vai trò chính trong việc quản lý phong
tục, bản sắc văn hóa của người Stiêng. Trưởng ấp thường là người Kinh nên không
am hiểu nhiều về tập tục của người Stiêng, già làng là người tư vấn trong việc
quản lý phong tục. Người Stiêng nghe già làng nhiều hơn trưởng ấp nên già làng
là người có tiếng nói rất trọng lượng trong việc tuyên truyền phổ biến chính
sách của nhà nước.
Hiện nay, già làng vẫn chưa có
trợ cấp thỏa đáng nào, không có lương bổng. Các già làng chỉ làm việc trên tinh
thần cộng đồng. Già làng Điểu Gium cho biết, hằng năm nhà nước có thăm già làng,
cho quà, gạo, đường. Mỗi năm nhà nước cho 300 ngàn đồng hoặc 10 kg gạo. Ngoài
ra già làng không có lương bổng nào khác. Theo bà Thị Hương, trong quá trình
tham gia hòa giải, sau khi hòa giải những xích mích trong cộng đồng xong, già
làng cũng chỉ được chiêu đãi bằng bữa tiệc thịt heo, gà.
Theo Điểu Sơn, Hội đồng Già làng
hoạt động yếu, "thích thì làm, không thích thì thôi". Già làng có ý
kiến giải quyết mâu thuẫn nhưng không thể bắt buộc già làng phải làm. Già làng
được đảng và nhà nước có quan tâm ít nhiều. Tuy nhiên, già làng không đảm nhiệm
nổi việc giáo dục thế hệ trẻ. Kiến thức của già làng không đáp ứng được yêu cầu
cần thiết để thực hiện nhiệm vụ. Trước đây, tiếng nói của già làng có trọng
lượng hơn bây giờ do lối sống của ngày xưa theo tập tục nên họ vâng lời già
làng. Khi sống đan xen với người Kinh, do nhu cầu trao đổi văn hóa theo chiều
hướng của thời đại, tiếng nói của già làng giảm dần. Trình độ già làng không
nắm bắt được chủ trương; công tác tuyên truyền không được. Sự lắng nghe của
thanh thiếu niên với già làng một cách nhàm chán và giảm dần. Già làng chỉ biết
đọc biết viết vài từ, thường là chỉ biết ghi tên.
Theo nhu cầu của thời đại, trẻ
em người Stiêng dù gặp nhiều khó khăn nhưng ít nhiều các em cũng có cơ hội được
đến trường học nên cũng biết chữ và nói tiếng Việt thành thạo, trong khi già
làng lại thường không biết chữ; chính vì thế giới trẻ có thái độ không nghe
theo già làng. Vấn đề này một mặt nó xuất phát từ sự tự lực tự cường của thanh
thiếu niên trong quá trình hội nhập, họ học hỏi được các tiến bộ của khoa học -
kỹ thuật, giúp họ tiếp cận với tri thức của thời đại; một mặt nó đã thể hiện
nguy cơ vắng người kế tục để gìn giữ bản sắc dân tộc cho người Stiêng và xáo
trộn tổ chức cộng đồng một khi họ bất tuân già làng mà chưa tìm ra được tầng
lớp có vai trò thay thế .
III. THÂN TỘC, HÔN NHÂN
Người Stiêng cùng với các dân
tộc bản địa vùng Tây Nguyên và ở những vùng lân cận Tây Nguyên đều theo chế độ
mẫu hệ trong suốt quá trình lịch sử. Mô hình tổ chức thân tộc của họ cũng thể
hiện rõ hình thức mẫu cư, cư trú bên dòng họ mẹ. Điểu Đơ, ấp 7, cho biết, trước
đây mỗi dòng họ ở riêng, cư trú theo bên họ mẹ. Người ta chôn cất theo thế hệ
thân cận nhất, thường là về bên mẹ, để chôn cận kề nhau. Hiện nay, người Stiêng
chôn cất người chết trên nghĩa địa và không còn phân chia khu vực, chôn cất xen
lẫn nhau trong nghĩa địa.
Điểu Đơ thấy dòng họ bên mẹ thân
hơn dòng họ bên cha. Dòng họ bên cha thì chỉ thân thích trong vòng 3 đời cận
nhau. Tuy nhiên, ngày nay, ý thức dòng họ của người Stiêng không còn rõ ràng
như trước đây nữa. Nó chỉ thể hiện qua việc cấm "loạn luân", cấm kết
hôn giữa những người cùng dòng họ với mẹ, đây là dấu hiệu cơ bản nhất để nhận
biết quan hệ dòng họ của mỗi thành viên người Stiêng. Theo Điểu Đơ, những người
cùng họ mẹ nếu lấy nhau thì bị đuổi ra khỏi cộng đồng. Như vậy việc xác định
quan hệ dòng tộc của mỗi người với mục đích quan trọng nhất là để cấm
"loạn luân".
Ngoài ra còn có một dấu hiệu thứ
hai, đó là việc kiêng kỵ những thứ không được ăn. Đây là hình thức tín ngưỡng
vật tổ (tôtem giáo). Theo Điểu Đơ, mỗi dòng họ của người Stiêng có những kiêng
kỵ riêng. Để xác định một dòng họ nào đó, người ta hỏi đến những kiêng kỵ của
người đó, rồi từ các kiêng kỵ, người ta xác định được dòng họ. Dòng học của
Điểu Đơ thì kiêng rắn, trăn, cá sấu, chuối rừng. Nếu có người hỏi dòng họ của
Điểu Đơ thì Điểu Đơ sẽ nói dòng họ bên mẹ.
Việc nhận biết quan hệ dòng tộc
qua việc kiêng kỵ là không rõ ràng lắm. Theo bà Thị Hương, người ta có thể
kiêng ăn hoặc có thể ăn tùy theo niềm tin của mỗi người trong tâm linh về tác
hại khi ăn những vật kiêng kỵ. Trong gia đình mỗi khi bố kiêng ăn vật gì thì mẹ
cũng kiêng theo, mẹ kiêng ăn vật gì thì bố cũng kiêng theo; trong khi đó con
lại kiêng theo cả bố lẫn mẹ khi còn nhỏ và lớn lên thì lại chỉ ý thức kiêng
theo dòng họ mẹ. Mỗi dòng họ thì lại kiêng nhiều vật, các vật kiêng này nhiều
khi lại trùng nhau giữa các dòng họ. Việc xác định quan hệ dòng họ qua kiêng kỵ
là rất khó khăn.
Ý thức về quan hệ dòng tộc cũng
thể hiện trên tên gọi của mỗi dòng tộc. Tuy nhiên, nhiều người Stiêng hiện nay
không biết dòng họ của mình mang tên gì. Nhiều người được phỏng vấn không biết
đến tên của dòng họ mình. Tên dòng tộc không dùng để đặt tên, chỉ dùng để gọi
dòng tộc.
Ý thức dòng tộc của người Stiêng
trở nên phai mờ. Việc phai mờ của ý thức dòng tộc cũng bắt nguồn từ những
nguyên nhân về mối quan hệ xã hội trong hoạt động kinh tế hiện nay. Trước đây,
người ta cư trú theo dòng tộc để hỗ trợ nhau trong hoạt động canh tác sản xuất
nông nghiệp. Hiện nay do vấn đề đất đai, các gia đình trong cùng dòng tộc không
thể sống quanh quẩn bên nhau. Lối sống theo dòng tộc giữa các gia đình đã được
thay thế bởi lối sống gia đình hạt nhân.
Sự biến đổi về ý thức dòng tộc
dẫn đến sự biến đổi về chế độ mẫu hệ truyền thống của người Stiêng. Một biểu
hiện của sự biến đổi thể hiện rõ nét nhất là hiện tượng con trai có quyền cưới
vợ về cư trú ở nhà, và đám cưới được tổ chức ở cả nhà trai, lẫn nhà gái.
Điểu Đơ cũng cho biết các dòng
họ người Stiêng không có sự phân chia đẳng cấp cao thấp. Trước đây cũng vậy,
những dòng họ có già làng thì người ta chỉ tôn trọng già làng thôi chứ không
tôn trọng cả dòng họ của già làng.
Về hôn nhân người Stiêng, già
làng Điểu Gium cho rằng "mình theo [họ hàng] vợ nhưng mình vẫn làm chủ,
đàn ông làm chính, đàn bà làm phụ", "công việc nặng thì đàn ông làm,
công việc nhẹ thì phụ nữ làm". Trước đây, trai lấy vợ thì luôn ở nhà vợ;
ngày nay, tùy điều kiện của mỗi bên, cặp vợ chồng có thể cư trú ở bất kỳ nơi
nào. Ông cũng cho biết người Stiêng theo Tin Lành cũng ở chung với người không
theo đạo. Trong đám cưới thì mỗi bên trai gái sẽ tìm một người Tin Lành lớn
tuổi có uy tín làm đại diện cho mình. Mai mối cho hôn nhân thì phải là người
cùng theo đạo. Ông Điểu Rem cũng cho biết đám cưới Tin Lành thường có sự đại
diện của trưởng nhóm cho mỗi bên trai gái. Trong tổ chức thân tộc, thì con trai
vẫn thường ở nhà con gái, không có gì khác nhau giữa những người theo đạo và
không theo đạo.
Điểu Đơ cũng cho rằng, tại ấp 7,
theo truyền thống thì “trai cưới vợ [cưới là đưa sính lễ - theo cách hiểu về từ
này của anh] nhưng trai lại cư trú bên nhà vợ vì theo chế độ mẫu hệ”. Ngày nay
ấp 7 có trường hợp trai cưới vợ về ở nhà trai nhưng điều này chỉ mới xuất hiện
10 năm trở lại đây. Trong lễ cưới, nhà trai đưa sính lễ cho nhà gái nhưng lại
cư trú bên nhà gái cho đến khi cặp vợ chồng muốn ở riêng. Trước đây, đám cưới
luôn được tổ chức tại nhà gái, còn hiện nay, nó được tổ chức ở nhà nào cũng
được tùy vào điều kiện mỗi bên. Về việc cư trú sau hôn nhân thì cặp vợ chồng
cũng có thể cư trú bên nhà chồng, tùy điều kiện kinh tế ở mỗi bên. Nhìn chung ở
ấp 7, trường hợp trai cưới gái nhưng ở nhà gái thì nhiều hơn trường hợp trai
cưới gái về nhà trai.
Ngày 26 tháng 06, cô Thị Diễm
thuộc hộ ông Điểu Bước, ấp 54, Lộc An đã cho biết nhà hai chị em cô đều lấy
chồng rồi về cư trú tại nhà bố mẹ, bên cạnh đó, một người anh của cô là Điểu
Khiêm cũng lấy vợ rồi đưa vợ về sống tại nhà bố mẹ cô. Đây là trường hợp điển
hình cho việc con trai lấy vợ về cư trú tại nhà bố mẹ. Hộ gia đình này khá giàu
có, ngôi nhà sang trọng nên các con trai hay con gái đều lấy chồng, lấy vợ về
cư trú tại nhà bố mẹ. Trường hợp các con trai lấy vợ về cư trú tại nhà bố mẹ
của mình chỉ xảy ra khi nhà đó khá giả, có điều kiện kinh tế hơn nhà bên con
gái.
IV. TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG THEO TIN
LÀNH
Sự biến đổi rõ ràng nhất trong
tổ chức cộng đồng của người Stiêng theo Tin Lành là vai trò nổi trội của các
trưởng nhóm Tin Lành. Vai trò của già làng trở nên mờ nhạt. Già làng không phải
là người theo đạo nên tiếng nói của họ ít có tác động tới người Stiêng theo Tin
Lành. Trưởng nhóm Tin Lành là người có tiếng nói trọng lượng nhất đối với người
Stiêng theo Tin Lành. Theo Điểu Sơn, già làng có tiếng nói giảm đi được thay
thế bởi trưởng nhóm Tin Lành. Trưởng nhóm Tin Lành có tiếng nói trọng lượng hơn
đối với người Stiêng theo Tin Lành.
Theo Điểu Sơn, ấp 1, phó chủ
tịch xã Lộc An, cho biết toàn xã có 27 trưởng nhóm Tin Lành. Các trưởng nhóm tổ
chức cho tín đồ cầu nguyện tại nhà. Công giáo thì đi cầu nguyện tại nhà thờ Lộc
Tấn, huyện Lộc Ninh. Nhà nước chỉ cho phép Tin Lành hoạt động cá nhân.
Điểu Đơ cũng cho biết, Tin Lành
xuất hiện tại ấp 7 từ năm 1997 nhưng chỉ hoạt động bí mật, chưa được sự cho
phép của nhà nước trong thời gian đầu mới du nhập vì nhà nước sợ các thế lực
thù địch lợi dụng. Người Stiêng theo Tin Lành thì cầu nguyện vào chủ nhật hàng
tuần. Vào dịp Noel thì họ có tổ chức lễ, ngoài ra không còn lễ nào khác.
Ngày 25 tháng 06, tôi đến ấp 54;
theo lời của bà Thị Bếp, một người Stiêng theo Tin Lành cho biết, ấp 54 có một
căn nhà đang được xây lên để dành cho tín đồ Tin Lành cầu nguyện. Bà Thị Bếp có
chỉ cho tôi biết căn nhà này. Ngôi nhà này cũng đã sắp hoàn thành; về kiến
trúc, nó không có gì đặc sắc. Ngôi nhà này không lớn, chỉ bằng một ngôi nhà cư
trú của một hộ người dân khá giả tại ấp này.
Tin Lành là tôn giáo phát triển
nhanh chóng đối với các tộc người ở Tây Nguyên và vùng lân cận Tây Nguyên. Tin
Lành cũng đang phát triển nhanh trong xã hội người Stiêng. Điểu Sơn cũng cho
rằng số lượng người Stiêng theo Tin Lành đang tăng lên.
Việc tiếp thu các giáo lý Tin
Lành cũng có tác động giúp người Stiêng rèn luyện cho mình những đức tính tốt
đẹp góp phần đưa cộng đồng phát triển nhưng bên cạnh đó, xã hội người Stiêng
cũng xảy ra những mâu thuẫn bộc phát từ những cá nhân có thái độ phân biệt đối
xử. Theo Điểu Sơn, người theo Tin Lành tốt ở chỗ không uống rượu, bia, chỉ uống
nước ngọt. Một số người có sự phân biệt, so sánh sự khác biệt gây nên mâu thuẫn
trong xã hội.
Bất kì một tín đồ tôn giáo độc
thần nào đều không được thờ cúng thần linh khác ngoài Đấng tối cao nhưng người
Stiêng theo Công giáo vẫn cúng bái ông bà, cúng thần linh khác. Theo ông Điểu
Rem, người Stiêng theo Công giáo vẫn uống rượu và cúng bái.
V. CÔNG TÁC QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
Trưởng ấp là người điều hành các
hoạt động hành chính tại các ấp. Theo Điểu Rem, trưởng ấp là người Kinh, không
phải là già làng vì già làng thường không biết chữ. Tuy nhiên trưởng ấp cũng
chỉ có trình độ 12, không có một người có trình độ đại học, cao đẳng nào làm
việc tại các ấp.
Điểu Sơn cho biết trong cơ quan
hành chính xã, người Stiêng có 5 người là người có uy tín tham gia cơ quan hành
chính. Trong xã cũng có 30 người Stiêng tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng
và 40 sinh viên đang theo học các trường đại học, cao đẳng nhưng những người
tốt nghiệp đại học, cao đẳng đều không làm tại ấp hay xã vì mức lương thấp, họ
chỉ làm ở cấp huyện. Hằng năm cơ quan hành chính huyện có mời các sinh viên đến
sinh hoạt và có tặng quà.
Xã có tổ chức Ngày Đại Đoàn kết
để đoàn kết người Stiêng. Ngày Đại Đoàn kết không phải lễ hội truyền thống
nhưng nó cũng có phần cúng lễ trong ngày này. Ông Điểu Rem cho biết ngày Đại
Đoàn kết diễn ra trong tháng 11, thường là vào ngày 20. Trong ngày này, mọi
thành phần xã hội đều tham gia đông đảo. Những người theo Tin Lành, Công giáo
mặc dù không cúng lễ mừng lúa mới hay cúng bà bóng... nhưng cũng tham gia ngày
Đại Đoàn kết về phần hội, còn phần cúng lễ thì được miễn. Ngày Đại Đoàn kết gồm
hai phần: lễ và hội. Trong phần lễ, người ta thực hiện cúng 1 con gà, 1 lít
rượu. Về phần hội, người ta đánh cồng chiêng, văn nghệ, thi đấu thể thao.
Điểu S Rốt cho biết khi mới giải
phóng năm 1975, nhiều cán bộ chính quyền đến vận động người dân họp theo định
kỳ 1- 2 lần / tháng. Già làng cùng với trưởng ấp tiến hành vận động mọi người
họp chung. Hiện nay già làng cùng với trưởng ấp cũng tiến hành vận động mọi
người họp chung nhưng chỉ thực hiện trong ngày Đại Đoàn kết tại nhà sàn văn hóa
của làng. Đại hội này được thực hiện vào cuối năm âm lịch, tức là tiến hành
trước tết vài ngày, tương ứng với các tháng 1 - 2 dương lịch. Qua đó trưởng ấp
sẽ tổng kết, đánh giá tình hình sản xuất, tình hình văn hóa giáo dục của làng
với cấp trên. Ông Điểu Rem cũng cho biết, trước đây, khi mới giải phóng, ấp 54
thường xuyên họp dân, có khi 2-3 lần /tháng, chỉ cần gõ kẻng thôi dân làng đã
đến họp đông đảo. Hiện nay thỉnh thoảng, lâu lâu có chuyện đột xuất thì trưởng
ấp mới tiến hành họp dân, có khi có năm không phải họp một lần nào.
Nhà sàn là nơi tụ họp của người
dân Stiêng, là nơi sinh hoạt trong ngày Đại Đoàn kết. Điểu S Rốt cho biết nhà
sàn văn hóa của ấp 1 được bố trí cái loa phát thanh để thông tin cho bà con, do
ấp trưởng phụ trách. Tuy nhiên 2 năm trở lại đây, có thể là do loa bị hư, ông
không còn thấy có thông tin nào được phát qua loa nữa. Điểu Rem thì cho biết
trong nhà sàn văn hóa cộng đồng của ấp 54, ấp trưởng có bố trí một cái loa phát
thanh để thông tin cho người dân do trưởng ấp phụ trách. Trưởng ấp thường xuyên
tiếp sóng đài tiếng nói Việt Nam, đài phát thanh Bình Phước để phát thường
xuyên vào buổi sáng hằng ngày vào lúc 5h - 6h30. Chương trình phát thanh này
thường đề cập đến thời sự, chương trình khuyến nông, kể cả các lời mời hội họp.
Ấp 54 có điện từ năm 1997. Điểu Đơ cho biết nhà sàn văn hóa ấp 7 chưa có loa
phát thanh vì ấp 7 mới chỉ có điện trong năm 2004.
VI. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ CỐ
KẾT CỘNG ĐỒNG ĐẾN VIỆC TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG
Các yếu tố cố kết cộng đồng cũng
góp phần đáng kể vào quá trình tổ chức cộng động để giúp cho cộng đồng phát
triển. Trong giới hạn đề tài này, tôi xét thêm yếu tố lễ hội và ngôn ngữ về
trai trò của nó trong sự cố kết cộng đồng, tác động tới việc tổ chức cộng đồng.
Lễ hội và ngôn ngữ tộc người, bản thân nó không phải là một hình thức tổ chức
cộng đồng nhưng nó có tác động đến việc tổ chức cộng đồng vì nó tạo ra sự cố
kết.
1. Lễ hội
Người Stiêng có các nghi lễ như
tục đâm trâu, lễ cúng bà bóng, lễ mừng lúa mới, lễ cúng lúa.
Theo ông Điểu Rem, tục đâm trâu
diễn ra vào ngày mà già đình muốn từ khấn, thường là vào mùa khô (các tháng 11,
12, 1, 2). Tục này có đánh trống, chiêng, trống múa, ca hát chỉ do một nhà tổ
chức có cúng một con trâu, một con heo. Con trâu sẽ được đâm để tế lễ. Tục này
cũng có sự hảo tâm về tiền để ủng hộ người nhà tổ chức. Từ năm 1989 - 1990 tục
đâm trâu không còn tồn tại để thực hiện theo chủ trương của nhà nước trong việc
xóa bỏ “mê tín dị đoan”.
Cũng theo ông Điểu Rem, lễ mừng
lúa mới hiện nay bị hạn chế do chuyển đổi cây trồng. Lễ này được các gia đình
thực hiện vào ngày từ khấn. Trước đây lễ được tổ chức trên quy mô cộng đồng. Từ
năm 2000, lễ mừng lúa mới không còn được tổ chức với quy mô cộng đồng nhưng vẫn
duy trì ở quy mô gia đình, do họ tự thực hiện. Một số hộ gia đình thực hành
trên quy mô này cho tới ngày nay. Lễ mừng lúa mới được thực hiện vào tháng 9
hằng năm. Già làng Điểu Gium cho biết lễ cúng lúa hiện nay cũng được thực hiện
khi các gia đình thu hoạch được lúa. Cúng lúa là để tỏ lòng biết ơn tới trời,
được thần linh phù hộ.
Lễ cúng bà bóng là nghi thức
cúng tế khi người nhà có người bị bệnh để cầu mong thần linh ban cho sức khỏe.
Đây là một loại ma thuật dùng để “chữa bệnh”. Điểu Sơn cho biết trước đây lễ
cúng tế này là một hiện tượng “mê tín dị đoan” vì chữa bệnh theo kiểu cúng tế.
Ngày nay người ta chỉ đến bệnh viện để điều trị, uống thuốc chữa trị chứ không
thực hiện lễ cúng bà bóng để chữa bệnh. Điểu Rem cũng cho biết lễ cúng bà bóng
trước đây là “mê tín dị đoan”, ngày nay người ta chỉ uống thuốc điều trị, bệnh
nặng lắm, chữa không khỏi thì mới mời thầy cúng.
Trước đây, nhiều nghi lễ cúng tế
tồn tại đã tạo địa vị cho các thầy cúng. Các tầng lớp phụ trách cúng tế này có
tiếng nói nhất định đối với cộng đồng. Các thầy cúng này ít nhiều cũng có quyền
lực nhất định. Không phải các lễ cúng nào cũng đều là thuần phong mỹ tục, một
số lễ tục đã bị mất đi. Sự mất đi của lễ tục đâm trâu, sự giảm thiểu của lễ
cúng bà bóng trong các gia đình người Stiêng hiện nay đã làm giảm đáng kể địa
vị của những người thực hiện cúng tế. Đây là yếu tố căn bản trong sự chuyển
biến tổ chức cộng đồng của người Stiêng. Vai trò của những người cúng tế được
thay thể bởi vai trò điều hành của các cơ quan hành chính, duy chỉ vai trò của
già làng còn được duy trì nhưng không còn trọng lượng như trước.
Như vậy hiện nay, người Stiêng ở
Lộc An còn duy trì các lễ nghi như lễ mừng lúa mới và lễ cúng lúa là những nhân
tố tạo sự cố kết cộng đồng, giúp tổ chức cộng đồng hiệu quả nhưng nó chỉ do các
gia đình tự thực hiện. Lễ cúng bà bóng hiện nay được giảm thiểu, nó chỉ được
thực hiện riêng rẽ vào thời điểm mà người Stiêng có người bị bệnh khó chữa, đặc
biệt là nó chỉ thực hiện ở một số ít gia đình.
2. Ngôn ngữ
Ông Điểu S Rốt cho biết, cho đến
trước khi Tin Lành được truyền đến thì người Stiêng vẫn chưa có chữ viết. Hiện
nay một số giáo sĩ đã sử dụng chữ La-tinh để ghi âm tiếng Stiêng rồi cải biến
thành chữ viết cho người Stiêng. Tuy nhiên, chữ đó chỉ được một số người theo
Tin Lành mới biết sử dụng. Họ là những trưởng nhóm Tin Lành.
Ông Điểu S Rốt cho biết người
Stiêng nói tiếng Stiêng có pha lẫn tiếng Việt. Theo đó những từ tiếng Việt sẽ
được lược bỏ dấu thanh. Ví du: "bánh mì" trở thành "banh
mi". Một số thanh niên không thích nói tiếng mẹ đẻ mặc dù họ đang giao
tiếp giữa những người Stiêng với nhau.
Quá trình hội nhập của người
Stiêng đã đưa đến những mặt tích cực và có cả mặt tiêu cực là thách thức đối
với họ. Một khi giới trẻ phải học những kiến thức phổ thông từ nhà trường, phải
tiếp thu những thành tựu khoa học - kĩ thuật bằng ngôn ngữ khác thì buộc họ
phải làm quen, phải thành thạo ngôn ngữ đó. Yêu cầu này khiến họ cảm thấy khó
khăn trong việc giữ gìn tiếng nói của mình, cũng không loại trừ thái độ không
trân trọng tiếng mẹ đẻ của một số người Stiêng.
Tiếng Stiêng hiện nay cũng đã
chia tách thành các nhóm địa phương. Tiếng nói của một tộc người được hình thành
trong quá trình lịch sử của tộc người đó. Một khi tộc người có sự di cư, phân
tách để sống những nơi khác nhau thì ngôn ngữ tộc người này cũng bị chia tách
thành các nhóm địa phương theo những khu vực cư trú. Theo ông Điểu S Rốt, người
Stiêng ở tỉnh Bình Phước không nói chuyện được với người Stiêng ở Tây Nguyên.
TỔNG KẾT
Sự biến đổi về tổ chức cộng đồng
người Stiêng thể hiện qua sự thay đổi mô hình tổ chức xã hội truyền thống. Vai
trò của già làng chỉ còn thể hiện trong việc truyền nối, giữ gìn phong tục văn
hóa và hỗ trợ các cơ quan hành chính trong việc giữ gìn trật tự. Già làng không
có vai trò trực tiếp quản lý, điều hành xã hội nhưng vẫn là người có tiếng nói
có trọng lượng hơn trưởng ấp về phía người Stiêng. Đối với người Stiêng theo
Tin Lành thì trưởng nhóm Tin Lành là người có tiếng nói quyết định, thay thế
vai trò của già làng. Trưởng ấp thường là người Kinh, trực tiếp nắm quyền quản
lý, điều hành xã hội nhưng chủ yếu chỉ thực hiện trên mặt hành chính.
Thân tộc, hôn nhân người Stiêng
cũng có sự thay đổi, trước hết là sự mất đi về hình thức quần cư của các gia
đình trong cùng một dòng họ bên mẹ của chế độ mẫu hệ truyền thống. Trai có
quyền cưới vợ về nhà bố mẹ, đám cưới có thể được tổ chức ở cả bên trai hay gái
là tùy theo điều kiện kinh tế mỗi bên. Người Stiêng vẫn duy trì ý thức dòng tộc
mẫu hệ thông qua việc cấm kết hôn giữa những người cùng dòng hệ bên mẹ, việc
kiêng kỵ và dòng tộc của con cái được xác nhận theo dòng họ bên mẹ. Tuy nhiên,
ý thức dòng tộc mẫu hệ cũng không khuôn mẫu như trước; người ta chú trọng quan
hệ huyết thống của những thế hệ thân cận nhau trong vòng 3 đời ở cả bên bố lẫn
bên mẹ.
Một số lễ tục đã biến mất như
tục đâm trâu, còn lễ cúng bà bóng thì được giảm thiểu. Các nghi lễ nông nghiệp
như lễ mừng lúa mới, lễ cúng lúa vẫn còn duy trì nhưng được thực hiện nhỏ lẻ do
quá trình chuyển đổi cây trồng, chú trọng trồng các loại cây công nghiệp. Việc
mất đi và giảm thiểu các nghi lễ, nghi thức cúng bái đã làm giảm địa vị của
những người thực hiện cúng tế, từ đó thầy cúng không còn tiếng nói trong cộng
đồng nữa, ngoại trừ vai trò của già làng còn được duy trì nhưng không còn trọng
lượng như trước.
Ngôn ngữ Stiêng hiện nay cũng đã
có dấu hiệu mai một. Ngôn ngữ có vai trò cố kết cộng đồng, tác động đến việc tổ
chức cộng đồng. Ngôn ngữ Stiêng mai một cũng do quá trình hội nhập với người
Kinh ở miền xuôi. Quá trình hội nhập là xu thế tất yếu trong sự phát triển với
điều kiện hiện nay. Giới trẻ người Stiêng phải làm quen với tiếng Việt để tiếp
thu các thành tựu khoa học kỹ thuật theo ngôn ngữ phổ thông. Yêu cầu này nhiều
khi khiến họ quay lưng với ngôn ngữ của mình. Trong quá trình lịch sử tộc
người, ngôn ngữ Stiêng cũng đã bị chia tách thành các nhóm địa phương mà điển
hình là vấn đề người Stiêng ở Bình Phước không giao tiếp được với người Stiêng
ở Tây Nguyên. Việc chia tách thành các nhóm địa phương về ngôn ngữ này gây khó
khăn trong quá trình liên lạc, quan hệ nội bộ giữa người Stiêng với nhau.
Nhận xét
Đăng nhận xét